Qua các cuộc chiến tranh giành bá quyền diễn ra lâu dài trong thời kỳ Xuân Thu, rất nhiều nước chư hầu nhỏ bị nước lớn thôn tính. Trong nội bộ nhiều nước cũng sinh ra biến đổi, đại quyền dần dần rơi vào tay mấy đại phu. Những đại phu đó vốn cũng là quý tộc chủ nô, sau họ dùng phương thức bóc lột phong kiến, chuyển biến thành giai cấp địa chủ. Có người còn dùng biện pháp giảm nhẹ tô thuế, mua chuộc lòng người để mở rộng thế lực của mình. Do đó, thế lực của họ ngày càng lớn.
Nước Tấn một thời là bá chủ Trung Nguyên, đến lúc đó, quyền lực của quốc quân suy giảm, thế lực rơi vào tay sáu quan đại phu, mỗi người có vùng đất và thế lực riêng, thường đánh lẫn nhau. Về sau, hai nhà bị đánh bại, còn lại bốn nhà là Trí gia, Triệu gia, Hàn gia và Ngụy gia. Trong bốn họ đó, Trí gia có thế lực nhất.
Đại phu của Trí gia là Trí Bá Dao muốn xâm chiếm đất đai của ba nhà kia, liền nói với ba đại phu Triệu Tương Tử, Ngụy Hoán Tú, Hàn Khang Tú: “Nước Tấn vốn là bá chủ Trung nguyên, sau bị Ngô, Việt giành mất ngôi bá chủ. Để nước Tấn hùng mạnh trở lại, ta chủ trương mỗi nhà bỏ ra một trăm dặm đất và số dân ở đó để góp với nhà nước”.
Ba quan đại phu kia đều biết Trí Bá Dao có ý xấu, muốn dùng danh nghĩa nhà nước để ép họ phải bỏ ruộng đất ra. Nhưng ba nhà không thống nhất được về biện pháp đối phó. Hàn Khang Tử là người đầu tiên bỏ ra một trăm dặm đất và một vạn hộ khẩu cắt cho Trí gia, Ngụy Hoàn Từ sợ mang lỗi với Trí Bá Dao, cũng phải cắt nhường đất đai và hộ khẩu.
Trí Bá Dao lại đòi Triệu Tương Tử. Triệu Tương Tử không chịu, nói: “Đất đai là sản nghiệp của tổ tiên để lại, không thể cắt cho ai được”.
Trí Bá Dao nổi giận đùng đùng, liền hạ lệnh cho hai họ Hàn, Ngụy cùng góp quân đánh họ Triệu.
Lịch sử Trung Quốc năm 455 trước Công nguyên, Trí Bá Dao dẫn đạo trung quân, quân Hàn gia đảm nhiệm cánh bên phải, quân Ngụy gia đảm nhiệm cánh bên trái, cùng tiến đánh Triệu.
Triệu Tương Tử biết rằng ít không địch nổi nhiều, liền dẫn binh mã Triệu gia lưu giữ Tấn Dương (nay là thành phố Thái Nguyên, tỉnh Sơn Tây).
Ít ngày sau, Trí Bá Dao dẫn quân đội ba nhà vây chặt Tấn Dương. Triệu Tương Tử dặn dò tướng sĩ cố thủ, không được giao chiến. Khi binh mã ba nhà xông tới đánh thành, trên thành bắn tên xuống như mưa khiến họ không tài nào tiến lên được.
Thành Tấn Dương dựa vào cung tên, giữ vững được hơn hai năm, binh mã ba nhà không có cách nào công phá được.
Một hôm, Trí Bá Dao quan sát địa hình bên ngoài thành, thấy dòng sông Tấn Thủy chảy ở phía Đông bắc Tấn Dương, bỗng nảy ra một kế: dẫn nước sông Tấn Thủy vòng lại phía Tây nam thành để dìm ngập thành Tấn Dương, liền sai quân sĩ đào một con sông đến sát thành và đắp đập ở thượng du để ngăn nước lại.
Lúc đó vừa đúng mùa mưa. Đập nước không mấy lúc đã đầy. Trí Bá Dao hạ lệnh mở đập cho nước ùa vào thành Tấn Dương, tràn ngập toàn thành. Nhà cửa trong thành bị nưóc ngập hết, dân chúng phải trèo cả lên mái nhà tránh lụt. Bếp núc cũng chìm ngập, dân chúng phải treo nồi lên nấu cơm. Nhưng dân thành Tấn Dương căm thù Trí Bá Dao, thà chịu chết chìm, nhất định không đầu hàng.
Trí Bá Dao hẹn Ngụy Hoàn Tử và Hàn Khang Tú cùng đi xem thế nước. Hắn đắc ý chỉ vào thành Tấn Dương nói với hai người: “Các ngài xem, Tấn Dương sắp đi đời rồi. Trước kia, ta cứ nghĩ là Tấn Thủy giống như một bức thành, có thể ngăn được quân đội. Nay mới biết rằng nước cũng có thể tiêu diệt được một quốc gia”.
Hàn Khang Tử và Ngụy Hoàn Tử bên ngoài tỏ vẻ đồng tình, nhưng trong lòng ngầm lo sợ. Vì đất phong của Ngụy ở An Ấp (nay ở tây bắc huyện Hạ, Sơn Tây), đất phong của Hàn ở Bình Dương (nay ở tây nam huyện Lâm Phần, Sơn Tây) đều có sông chảy bên cạnh. Lời của Trí Bá Dao đã làm họ tỉnh ngộ: Tấn Thuỷ đã có thể làm ngập Tấn Dương, biết đâu một ngày nào đó An Ẩp và Bình Dương cũng lâm vào cảnh ngộ như Tấn Dương.
Sau khi Tấn Dương bị ngập, tình hình trong thành mỗi lúc một khó khăn. Triệu Tương Tử vô cùng lo lắng, nói với môn khách là Trương Mạnh Đàm: “Lòng dân tuy không sinh biến nhưng nếu nước dâng lên nữa, thì toàn thành khó mà giữ được”.
Trương Mạnh Đàm nói: “Tôi thấy Hàn và Ngụy cũng không tự nguyện cắt đất cho Trí Bá Dao đâu. Để tôi sẽ tìm cách gặp nói chuyện với họ”.
Đêm hôm đó, Triệu Tương Tử cử Tương Mạnh Đàm lẻn ra khỏi thành, trước hết tìm gặp Hàn Khang Tử, sau đó tìm gặp Ngụy Hoàn Tử, hẹn với họ cùng quay lại đánh Trí Bá Dao. Hàn, Ngụy đang lúc do dự, được Trương Mạnh Đàm bàn bạc, liền lập tức đồng ý.
Đêm hôm sau, đã quá canh ba, Trí Bá Dao đang ngủ trong doanh trại, bỗng thấy tiếng hô giết vang dội, liền vội vàng trở dậy, thấy quần áo chăn chiếu đều ướt hết. Định thần nhìn kỹ, thì trại quân đã ngập nước. Ban đầu, hắn còn tưởng rằng đập bị vỡ, nước tràn vào doanh trại mình, liền điều binh sĩ đi sửa đập. Nhưng chỉ trong chốc lát, nước dâng cao nhanh chóng, làm ngập hết trại quân.
Trí Bá Dao còn đang hoang mang ngơ ngác thì khắp bốn phía, tiếng trống trận vang lên, quân lính của ba nhà Triệu, Hàn, Ngụy đi thuyền nhỏ và bè mảng, nhất tề xông tới đánh giết. Quân lính của Trí gia bị chết đuổi và giết chết rất nhiều. Toàn thể quân đội của Trí Bá Dao bị tiêu diệt. Bản thân hắn cũng bị ba nhà bắt, giết đi.
Triệu, Hàn, Ngụy diệt được Trí gia, không những chỉ thu hồi lại đất phải nộp trước kia, mà còn chia đều đất của Trí gia. Sau đó, họ còn chia nốt những đất đai còn lại của nước Tấn.
Năm 403 trước Công nguyên, ba nhà Hàn, Triệu, Ngụy phái sứ giả đến Lạc Ấp xin thiên tử nhà Chu là Chu Uy Liệt Vương phong cho họ làm chư hầu. Chu Uy Liệt Vương thấy nếu phong cho họ cũng chẳng có hại gì, đành chấp nhận việc đã rồi, phong cho ba nước làm chư hầu.
Từ đó về sau, Hàn (đô thành ở huyện Vũ, sau lại dời đến Tân Trịnh, Hà Nam ngày nay), Ngụy (đô thành ở Tây bắc huyện Hạ, Sơn Tây ngày nay, sau lại dời đến Khai Phong, Hà Nam ngày nay), Triệu (đô thành ở Đông nam Thái Nguyên, Sơn Tây ngày nay, sau lại dọn đến Hàm Đan, Hà Bắc ngày nay) đều trở thành những nước lớn ở Trung Nguyên.
Cộng thêm bốn nước lớn khác là Tần, Tề, Sở, Yên, được lịch sử gọi là “Thất hùng đời Chiến Quốc”.