Hán Cảnh Đế cũng áp dụng chính sách vỗ về dân chúng như Hán Văn Đế, quyết tâm chỉnh đốn nền chính trị trong nước. Khi cảnh Đế còn là thái tử, có một quản gia tên là Triệu Thác, rất có tài, được mọi người gọi là “túi khôn”. Sau khi Cảnh Đế lên ngôi, liền thăng ông ta làm ngự sử đại phu.
Triều Hán thực hành chế độ quận huyện, nhưng đồng thời vẫn có 22 nước chư hầu. Những chư hầu đó đều là con cháu của Hán Cao Tổ, tức là các tước vương trong họ Lưu. Đến thời Hán Cảnh Đế, thế lực các chư hầu rất lớn, có nhiều đất đai, như nước Tề có hơn bảy mươi toà thành, nước Ngô có hơn năm mươi toà thành, nước Sở có hơn bốn mươi toà thành. Một số chư hầu không chịu sự chi phối của triều đình, đặc biệt là Ngô Vương Lưu Phì, rất kiêu ngạo ngang ngược. Đất phong của ông sát biển, lại có mỏ đồng, tự mình khai thác muối và đồng, giàu có ngang với hoàng đế, Ông ta không bao giờ tới Trường An triều kiến hoàng đế, tự coi nước Ngô là một vương quốc độc lập.
Triệu Thác thấy nếu cứ để tiếp tục như thế sẽ bất lợi cho việc tập quyền của trung ương, liều tâu với Hán Cảnh Đế: “Ngô vương không bao giờ đến triều kiến, theo lý thì đã phải tội từ lâu. Khi tiên đế (tức Hán Văn Đế) còn sống, đã rất rộng lượng với ông ta, nhưng ông ta càng ngang ngược tự đại. Ông ta tự khai thác đồng để đúc tiền, ngăn biển khai thác muối, chiêu binh mãi mã, chuẩn bị nổi loạn. Chi bằng nên sớm cắt bớt đất phong của ông ta đi.
Hán Cảnh Đế còn do dự: “Làm được thế thì tốt, nhưng lại sợ sẽ thúc đẩy Ngô vương làm loạn.”
Triệu Thác nói: “Người muốn làm phản thì nếu cắt đất mà làm phản, không cắt đất sớm muộn cũng sẽ làm phản. Bây giờ làm phản thì mối nguy còn nhỏ, sau này, thế lực họ hùng hậu lên rồi mới làm phản thì mối nguy càng lớn.
Hán Cảnh Đế thấy lời Triệu Thác có lý, liền quyết tâm giảm bớt đất phong của các chư hầu. Các chư hầu đại đa số nếu không hoang dâm vô độ, cũng hoành hành phi pháp, nhưng muốn tìm ra tội lỗi của họ để tạo lý do cắt giảm đất cũng không phải chuyện dễ. Một thời gian sau, có chư hầu cắt giảm một quận, có chư hầu bị cắt giảm mấy huyện
Cha của Triệu Thác nghe tin đó, liền từ quê hương Dĩnh Xuyên (nay ở huyện Vũ Hà Nam) từng đến kinh sư, nói với Triệu Thác: “Con làm ngự sử đại phu, địa vị đã đủ cao rồi, sao không an phận, mà còn bới việc ra? Con thử nghĩ xem, các vua chư hầu đều là anh em ruột thịt của hoàng thất, con quản làm sao được? Con cắt giảm đất phong của họ, ai ai cũng oán con. Con làm như thế để làm gì?
Triệu Thác nói: “Nếu không làm như vậy thì Hoàng Thượng không thể phát huy được quyền lực, nước nhà tất sẽ rối loạn”.
Người cha thở dài nói: “Con làm như thế thì thiên hạ của họ Lưu được an định, nhưng họ Triệu nhà ta sẽ nguy hiểm. Cha đã già không muốn nhìn thấy tai hoạ giáng xuốhg gia đình”.
Triệu Thác khuyên nhử cha, nhưng người cha vẫn không yên tâm, trỏ về quê hương Dĩnh Xuyên, liên uống thuốc độc tự sát.
Triệu Thác đang bàn với Cảnh Đế việc cắt đất phong của Ngô Vương Lưu Phì, thì Lưu Phì đã cất quân làm phản. Ông ta lấy lý do “trừng trị gian thần Triệu Thác cứu vãn thiên hạ của họ Lưu” để xúi giục các chư hầu khác cùng làm phản.
Năm 154 trước Công nguyên, bảy chư hầu là Ngô, Sỏ, Triệu, Giao Tây, Giao Đông, Tri Xuyên, Tề Nam đều nổi dậy, lịch sử gọi đó là” Thất quốc chi loạn” (loạn bảy nước).
Quân nổi loạn có thanh thế rất lớn, Hán cảnh Đế hơi sợ. Ông nhớ tới lời dặn dò của Hán Văn Đế lúc lâm chung, liền cử danh tướng Chu Á Phu làm thái uý, dẫn đầu ba mươi sáu tướng khác cùng đi dẹp loạn.
Lúc đó, trong triều có kẻ đố kỵ Triệu Thác, nói là bảy nước phát binh đều là do Triệu Thác. Y khuyên cảnh Đế: “Chỉ cần làm theo yêu cầu của bảy nước, giết Triệu Thác đi, và miễn tội khởi binh cho các nước chư hầu, khôi phục lại đất phong cho họ như cũ, thì họ sẽ rút quân về”.
Hán Cảnh Đế nghe theo lời đó, nói: “Nếu quả thật họ chịu rút quân, thì ta tiếc gì một Triệu Thác”.
Tiếp đó một số đại thần dâng sỏ vạch tội Triệu Thác, nói ông ta đại nghịch vô đạo. cần xử tội chém ngang lưng.
Một hôm, trung uý đến nhà Triệu Thác, truyền đạt mệnh lệnh Hoàng Đế, gọi ông ta lên triều bàn việc. Triệu Thác vẫn hoàn toàn không hay biết gì. lập tức mặc triều phục, cùng trung uý lén xen vào triều.
Xe ngựa đi tới cửa đông Trường An, trung uý bỗng rút chiếu thư, yêu cầu Triệu Thác xuống xe nghe chiếu. Sau khi trung uý tuyên đọc niậuh lệnh của cảnh Đế. một toán vũ sĩ ùa tới, trói Triệu Thác lại. Con người rất mực lo toan giữ gìn cơ đồ nhà Hán như Triệu Thác, phút chốc đã bị xử tội chém ngang lưng
Hán Cảnh Đế giết xong Triệu Thác liền cử người mang chiếu thư, yêu cầu bảy nước rút quân. Lúc đó Ngô Vương Lưu Phì đã đánh thắng mấy trận, chiếm được nhiều đất đai. Khi nghe yêu cầu quì xuống để nghe chiếu thư, liền cười nhạt: “Ta bây giờ cũng là hoàng đế, việc gì phải quì”.
Trong trại quân Hán có viên quan tên là Đặng Công về Trường An để báo cáo tình hình quân sự. cảnh Đế hỏi y: “Ngươi từ quân doanh về, đã biết tin Triệu Thác bị giết chưa? Quân Ngô, sỏ có chịu lui quân không?”.
Đặng Công nói: “Để khởi loạn, Ngô vương đã chuẩn bị mấy chục năm rồi. Lần này mượn cớ phát binh, đâu phải vì Triệu Thác? Bệ hạ đã giết nhầm Triệu Thác rồi. E rằng sau này sẽ không có ai dám bày mưu giúp triều đình nữa”.
Hán Cảnh Đế biết mình sai, nhưng hối hận thì đã muộn. May nhờ có Chu Á Phu rất giỏi dùng binh, trước hết ông không đánh thẳng vào quân Ngô, Sờ mà phái kỵ binh đánh bọc phía sau, cắt đứt đường tiếp lương của quân phiến loạn. Hai cánh quân Ngô, sở không có lương ăn trước hết tự rối loạn, Chu Á Phu mới phái tinh binh xuất kích đánh cho quân Ngô, Sở thất bại thảm hại.
Hai nước Ngô, Sở dẫn đầu làm loạn, nay đã thất bại, năm nước khác cũng nhanh chóng tan vỡ. Không đầy ba tháng, quân Hán đã dẹp yên loạn bảy nước.
Sau khi Hán Cảnh Đế dẹp xong loạn bảy nước, tuy vẫn cho con cháu đời sau của họ kế thừa vương vị, nhưng từ đó về sau, vua chư hầu chỉ được thu tô thuế trên đất phong, không được can dự công việc chính quyền ở địa phương nữa, quyền lực giảm đi rất nhiều. Chính quyền trung ương của triều đình Hán từ đó mới được củng cố vững mạnh.