Lịch sử Việt Nam thời nhà Trần – vua Lý Cao Tông – niên hiệu Thiên Tư Gia Thụy [1186-1202].
Mục lục
[Thiên Tư Gia Thụy] năm thứ 1 [1186]
Mùa thu, tháng 7, bắt được voi trắng, đặt cho tên là Thiên Tư. Xuống chiếu đổi niên hiệu là Thiên Tư Gia Thụy năm thứ 1.
Sai Lê Hòe Khanh sang nhà Tống đáp lễ.
[Thiên Tư Gia Thụy] năm thứ 2 [1187]
Đinh Mùi, [Thiên Tư Gia Thụy] năm thứ 2 [1187], (Tống Thuần Hy năm thứ 14). Mùa hạ, tháng 4, sét đánh nhà Thái Miếu.
Có nhà sư Tây Vực đến. Vua xuống chiếu hỏi sư ấy có tài năng gì, trả lời là có tài phục được hổ. Bảo làm thử, không hiệu nghiệm.
[Thiên Tư Gia Thụy] năm thứ 3 [1188]
Mậu Thân, [Thiên Tư Gia Thụy] năm thứ 3 [1188], (Tống Thuần Hy năm thứ 15). Mùa hạ, tháng 5, đại hạn. Vua thân ngự đến chùa Pháp Vân ở Duềnh Bà để đảo vũ, nhân rước tượng phật Pháp Vân về chùa Báo Thiên. (Buổi đầu bản triều [Lê] vẫn còn theo tục cũ này).
Tháng 6, động đất, gió bão.
Mùa thu, tháng 7, ngày mồng 1 Giáp Tý, nhật thực.
Thái sư Đỗ An Di chết, lấy Thái phó Ngô Lý Tín làm Phụ chính.
[Thiên Tư Gia Thụy] năm thứ 4 [1189]
Kỷ Dậu, [Thiên Tư Gia Thụy] năm thứ 4 [1189], (Tống Thuần Hy năm thứ 16). Mùa xuân, tháng 2, ngày mồng 1 Tân Dậu, nhật thực, mặt trời mặt trăng sắc đỏ như máu.
Động đất,
Tháng 3, vua ngự đi khắp núi sông, phàm xe vua đến đâu mà có thần linh đều cho phong hiệu và lập miếu để thờ.
[Thiên Tư Gia Thụy] năm thứ 5 [1190]
Canh Tuất, [Thiên Tư Gia Thụy] năm thứ 5 [1190], (Tống Thiệu Hy năm thứ 1). Mùa xuân, tháng giêng, hoàng thái hậu họ Đỗ băng.
Mùa thu, tháng 7, Thái phó ngô Lý Tín chết, lấy Đàm Dĩ Mông làm Thái phó.
Mùa đông, tháng 10, vua lễ yết Sơn Lăng, rước tượng mới tô của Hoàng thái hậu thờ phụ vào Thái Miếu.
Đóng thuyền Ngoạn Dao.
[Thiên Tư Gia Thụy] năm thứ 6 [1191]
Tân Hợi, [Thiên Tư Gia Thụy] năm thứ 6 [1191], (Tống Thiệu Hy năm thứ 2). Mùa xuân, nước Chân Lạp sang cống.
Mùa đông, tháng 12, sao Huỳnh Hoặc phạm vào sao Thái Bạch.
[Thiên Tư Gia Thụy] năm thứ 7 [1192]
Nhâm Tý, [Thiên Tư Gia Thụy] năm thứ 7 [1192], (Tống Thiệu Hy năm thứ 3). Mùa hạ, tháng 6, động đất.
Mùa thu, tháng 7, sét đánh vào điện Vĩnh Ninh hai chỗ.
Người giáp Cổ Hoằng ở Thanh Hóa làm phản, sai tướng đi đánh, dẹp được. Trước đó có người giáp ấy thấy vệt chân trâu [trèo lên] cây muỗm, nhìn lên thấy con trâu bạc, hồi lâu, nó lại theo ngả khác đi xuống. Có người lính ở giáp ấy là Lê Văn đoán rằng: ‘Trâu trắng là vật ở dưới, nay lại ở trên cây, thế là điềm kẻ dưới lên ở trên”. Nhân đó bèn rủ nhau làm phản. Đến đây đánh dẹp yên được.
Đào sông Tô Lịch.
[Thiên Tư Gia Thụy] năm thứ 8 [1193]
Quý Sửu, [Thiên Tư Gia Thụy] năm thứ 8 [1193], (Tống Thiệu Hy năm thứ 4). Khảo khóa các quan văn võ trong ngoài, để rõ nên giáng hay thăng. thi các sĩ nhân trong nước để [chọn người] vào hầu vua học.
[Thiên Tư Gia Thụy] năm thứ 9 [1194]
Giáp Dần, [Thiên Tư Gia Thụy] năm thứ 9 [1194], (Tống Thiệu Hy năm thứ 5). Mùa thu, tháng 7, hoàng thái tử Sảm sinh. Phong Đàm nguyên phi làm An Toàn hoàng hậu. Đại xá thiên hạ. ban cho người già từ 70 tuổi trở lên mỗi người một tấm lụa. Mở tiệc rượu hai ngày ở miếu.
Mùa đông, tháng 10, mưa đá, có tảng to bằng đầu ngựa.
Đóng thuyền Thiên Long.
[Thiên Tư Gia Thụy] năm thứ 10 [1195]
Ất Mão, [Thiên Tư Gia Thụy] năm thứ 10 [1195], (Tống Ninh Tông Khuếch, Khánh Nguyên năm thứ 1). Nùa xuân, tháng 2, động đất.
Sét đánh gác Ly Minh.
Thi Tam giáo, cho đỗ xuất thân.
[Thiên Tư Gia Thụy] năm thứ 12 [1197]
Đinh Tỵ, [Thiên Tư Gia Thụy] năm thứ 12 [1197], (Tống Khánh Nguyên năm thứ 3). Mùa hạ, tháng 6, hạn.
Dựng cung Nghênh Thiềm.
[Thiên Tư Gia Thụy] năm thứ 13 [1198]
Mậu Ngọ, [Thiên Tư Gia Thụy] năm thứ 13 [1198], (Tống Khánh Nguyên năm thứ 4). Mùa xuân, tháng giêng, xuống chiếu sa thải các tăng đồ, theo lời tâu của Đàm Dĩ Mông.
Mùa thu, tháng 7, nước lớn.
Sứ Chiêm Thành sang cống và cầu phong.
Người hương cao Xá ở câu Diễn là Ngô Công Lý chiêu tập những kẻ vô lại, cùng với người châu Đại Hoàng là bọn Đinh Khả tự xưng là con cháu của Đinh Tiên Hoàng và Bùi đô đồng thời làm loạn. Đều dẹp yên được.
[Thiên Tư Gia Thụy] năm thứ 14 [1199]
Kỷ Mùi, [Thiên Tư Gia Thụy] năm thứ 14 [1199], (Tống Khánh Nguyên năm thứ 5). Mùa thu, tháng 7, nước to, lúa mạ ngập hết.
Đói to.
Mùa đông, tháng 10, vua ngự đến phủ Thanh Hóa bắt voi. Sai sứ sang phong vua nước Chiêm Thành.
[Thiên Tư Gia Thụy] năm thứ 15 [1200]
Canh Thân, [Thiên Tư Gia Thụy] năm thứ 15 [1200], (Tống Khánh Nguyên năm thứ 6). Mùa xuân, tháng giêng, đem thóc chẩn cấp cho dân nghèo.
Mùa thu, tháng 7, Chiêm Linh Thái hậu băng.
[Thiên Tư Gia Thụy] năm thứ 17 [1202]
Nhâm Tuất, [Thiên Tư Gia Thụy] năm thứ 17 [1202], (Từ tháng 8 về sau là niên hiệu Thiên Gia Bảo Hựu năm thứ 1; Tống Gia Thái năm thứ 2).
Mùa xuân, tháng 3, động đất.
Mùa thu, tháng 8, hoàng thái tử Thầm sinh. Đổi niên hiệu là Thiên Gia Bảo Hựu năm thứ 1.
Sai nhạc công chế khúc nhạc gọi là nhạc Chiêm Thành, tiếng trong trẻo, ai oán buồn rầu, người nghe phải chảy nước mắt. Tăng phó Nguyễn Thường nói: “Ta nghe bài tựa Kinh Thi nói rằng: Âm thanh của nước loạn nghe như ai oán giận hờn. Nay dân loạn nước nguy, chúa thượng thì rong chơi vô độ, triều đình rối loạn, lòng dân trái lìa, đó là triệu bại vong”.
Đại Việt Sử Ký Ngoại Kỷ Toàn Thư,