Lịch sử thời kỳ tiền sử hay còn gọi là thời kỳ xã hội cộng sản nguyên thủy, kéo dài hàng triệu năm, là thời kỳ dài nhất trong lịch sử xã hội loài người. Đây là thời kỳ mà tất cả các dân tộc đều phải trải qua, đặt nền tảng cho tính cách và truyền thống của từng dân tộc, là thời “thơ ấu” của từng tộc người, từng dân tộc.
Quá trình tiến hóa từ Vượn thành Người hiện đại
Cách ngày nay khoảng ba đến bốn triệu năm, một loài vượn đặc biệt đã chuyển biến thành người. Đây là một quá trình lâu dài và trải qua nhiều giai đoạn:
- Đầu tiên từ loài Vượn đặc biệt chuyển biến thành Vượn – Người, yếu tố vượn còn nhiều hơn.
- Từ Vượn – Người tiến hóa thành Người – Vượn, yếu tố người đã nhiều hơn.
- Từ Người vượn tiến lên thành Người tinh khôn
- Và cuối cùng từ Người tinh khôn tiến lên thành Người hiện đại Homo sapiens.
Với người Homo sapiens, quá trình vượn chuyển biến thành người đã hoàn thành. Người Homo sapiens trở thành ông tổ của bốn chủng tộc lớn trên thế giới ngày nay đó là: chủng tộc Môngôlôit (ở châu Á, da vàng, tóc đen, mắt đen), chủng tộc Ơrôpôít (ở châu Âu, da trắng, mắt, xanh tóc vàng hoặc bạch kim), chủng tộc Nêgrôít ở châu Phi (da đen, tóc đen xoăn) và chủng tộc Ôxtralôít ở châu Đại Dương (da hơi xám, tóc đen, mắt đen). Từ đại chủng người ta lại chia loài người thành tiểu chủng và loại hình nhân chủng là những cộng đồng người có đặc điểm bên ngoài giống nhau hơn nữa.
Mục lục
Bầy người nguyên thủy
Cộng đồng đầu tiên của xã hội loài người là các bầy người nguyên thủy, một bầy người khoảng từ 10 đến vài chục người. Giữa các bầy người không có mối quan hệ với nhau, đời sống hết sức thấp kém. Bầy chưa phải là xã hội loài người theo đúng nghĩa của nó, mới chỉ là giai đoạn manh nha những nhân tố của xã hội loài người, ở bầy người chưa có văn hóa, phong tục tập quán và tôn giáo. Hôn nhân được tiến hành trong bầy với nhau (tạp hôn).
Công cụ chủ yếu thời kỳ này là đồ đá nhưng chưa được chế tác (đồ đá cũ).
Cộng đồng thị tộc
Trải qua hàng triệu năm phát triển, người nguyên thủy tiến lên một cộng đồng mới cao hơn là cộng đồng thị tộc. Cộng đồng là thị tộc người cố kết với nhau trên cơ sở cùng chung huyết thống, máu mủ ruột rà, là hạt nhân để sau này hình thành họ tộc. Với thị tộc, xã hội loài người thực sự bắt đầu.
Thị tộc mẫu quyền
Thị tộc đầu tiên là thị tộc mẫu quyền, còn gọi là thị tộc mẫu hệ. Trong thị tộc mẫu quyền người phụ nữ nắm vai trò điều hành thị tộc. Hôn nhân thời kỳ này bắt buộc phải ngoại tộc hôn, nên con chỉ biết có mẹ và theo dòng họ mẹ. Thời kỳ này người nguyên thủy vẫn sử dụng công cụ đá đã được chế tác nhưng chưa tinh xảo lắm nên gọi là thời đại đồ đá giữa.
Trong giai đoạn thị tộc mẫu quyền đã xuất hiện văn hóa, tôn giáo, phong tục tập quán, có một nền dân chủ công bằng mang tính chất nguyên thủy. Giữa các thị tộc đã mở rộng liên kết địa bàn kiếm ăn, hôn nhân với nhau, giúp đỡ nhau, do đó hình thành cộng đồng bộ lạc. Bộ lạc là sự liên kết hai hay nhiều thị tộc với nhau. Đứng đầu bộ lạc là tù trưởng do các thành viên bộ lạc bầu lên một cách dân chủ, công khai
Thị tộc mẫu quyền là đỉnh cao nhất của xã hội nguyên thủy, trong đó không có tư hữu về tư liệu sản xuất, không có giai cấp nhà nước, pháp luật, không có chiến tranh. Các cuộc xung đột bộ lạc không phải là chiến tranh vì không nhằm mục đích chính trị mà chỉ vì lý do trả thù cho thành viên của mình bị hại mà thôi.
Thị tộc phụ quyền
Kết thúc thời kỳ thị tộc mẫu quyền, xã hội nguyên thủy bước sang thời kỳ thị tộc phụ quyền. Nguyên nhân sự thay đổi này là do sự phát triển của công cụ sản xuất. Người nguyên thủy trong khi lao động sản xuất không ngừng có tham vọng nâng cao năng suất lao động. Để đạt được mục đích này họ đã luôn luôn tìm cách cải tiến, đổi mới công cụ sản xuất. Họ đã phát minh ra cung tên. Sự kiện này được Ph.Ăngghen đánh giá có tầm quan trọng như phát minh ra súng thời kỳ cận đại.
Người nguyên thủy đã sử dụng công cụ đồ đá mới, đồ đá được chế tác đẹp đẽ đúng với hình dáng, chức năng của công cụ, sử dụng có hiệu quả hơn. Kim loại đồng, sắt được người nguyên thủy tìm thấy khoảng 400 năm trước công nguyên. Công cụ sản xuất thay đổi làm xuất hiện nhiều ngành nghề mới như săn bắn. chăn nuôi, trồng trọt, đánh cá. Thủ công nghiệp ra đời sản xuất vải vóc, đồ gốm, công cụ sản xuất, vũ khí, đồ trang sức, V.V.. Tất cả những ngành nghề mới đó đòi hỏi người đàn ông phải đóng vai trò chính trong sản xuất, phân công lao động.
Trong xã hội phụ quyền xuất hiện những gia đình lớn nhiều vợ, nhiều chồng chung sống với nhau, con sinh ra phải mang dòng họ cha. Trong thị tộc phụ hệ, quyền uy gia trưởng của người đàn ông được xác lập.
Liên minh bộ lạc
Ngoài cộng đồng thị tộc và bộ lạc, xã hội bấy giờ có thêm cộng đồng Liên minh bộ lạc, kết quả hợp nhất giữa hai hay nhiều bộ lạc với nhau. Đứng đầu Liên minh bộ lạc là Hội đồng Liên minh bộ lạc mà thành viên là các tù trưởng bộ lạc. Tôn giáo, văn hóa, phong tục tập quán phát triển cao hơn một bước so với thời kỳ mẫu quyền. Song, xã hội vẫn chưa có chế độ tư hữu, giai cấp và nhà nước và pháp luật.
Xuất hiện tư hữu
Tuy nhiên, thời kỳ thị tộc phụ quyền xã hội nguyên thủy bước sang giai đoạn tan rã. Với công cụ đá mới tinh xảo và công cụ kim loại đã nâng cao năng suất lao động làm ra sản phẩm dư thừa, điều này dẫn đến sự phá vỡ tính cố kết của cộng đồng thị tộc vốn dĩ dựa trên cơ sở nâng suất lao động thấp.
Ngày xưa, khi đời sống thấp kém người ta phải cố kết với nhau để tồn tại, đến khi năng suất lao động cao thì chỉ cần gia đình một vợ một chồng cũng có được của cải dư thừa. Vậy là xã hội xuất hiện gia đình một vợ một chồng và kết quả của sự chuyển biến này đã ra đời chế độ tư hữu vì các gia đình một vợ một chồng chiếm đoạt ruộng đất, của cải của công xã làm của riêng đã đưa xã hội đến sự phân hóa giàu nghèo và xuất hiện giai cấp.
Đại đa số nông dân công xã chiếm được ít ruộng đất trở thành dân nghèo. Các “quan chức” nguyên thủy như tộc trưởng, tù trưởng, thủ lĩnh liên minh bộ lạc, thủ lĩnh quân sự do có quyền thế nên chiếm đoạt được nhiều ruộng đất trở nên giàu có. Sự giàu có càng được tăng cường khi họ tiến hành chiến tranh với các bộ lạc khác cướp bóc của cải đất đai của các bộ lạc bại trận, biến cư dân của bộ lạc bại trận thành giai cấp nô lệ.
Xem thêm: Sự xuất hiện chế dộ tư hữu và xã hội có giai cấp
Công xã nguyên thủy tan rã và loài người bước vào xã hội có chế độ tư hữu, có giai cấp và nhà nước. Loài người chấm dứt xã hội dã man theo cách nói của Ph.Ăngghen để bước sang xã hội văn minh. Trong xã hội có giai cấp, xuất hiện mâu thuẫn giai cấp, dẫn tới xung đột giai cấp và đấu tranh giai cấp. Đấu tranh của giai cấp nghèo chống lại giai cấp giàu có, điều này đã đe dọa đến quyền lợi của giai cấp chủ nô. Để đổ phó lại, chủ nô đã phát minh ra một công cụ “huyền diệu” giúp chúng dù là thiểu số trong xã hội vẫn có thể thống trị, đàn áp, bóc lột được đại đa số dân cư. Công cụ đó chính là bộ máy nhà nước.
Vậy nhà nước là công cụ của giai cấp này để thống trị, áp bức giai cấp khác, cho nên nhà nước mang bản chất giai cấp, phục vụ cho một giai cấp nhất định. Trong xã hội có áp bức, bóc lột không thể có nhà nước toàn dân. Nhưng trong khi phục vụ cho giai cấp mình, nhà nước buộc phải phục vụ toàn xã hội như tổ chức phát triển kinh tế, văn hóa. Xây dựng các công trình công cộng, ban hành pháp luật để bảo đảm an ninh cho toàn xã hội, do đó nhà nước còn mang tính chất xã hội.
Nhà nước bao giờ cũng có hai đặc trưng cơ bản, thứ nhất là hình thành những cơ quan quyền lực công cộng bao gồm bộ máy quan liêu hành chính, trí thức tăng lữ và cơ quan sức mạnh. Đặc trưng thứ hai là nhà nước cai trị lãnh thổ theo khu vực hành chính. Trong thời kỳ cận hiện đại, ngoài cấu trúc lãnh thể đơn nhất còn có thêm cấu trúc lãnh thổ liên bang. Nhà nước bao giờ cũng có hai chức năng đối nội và đối ngoại. Khi mà xã hội cộng sản nguyên thủy kết thúc thì xã hội có giai cấp đầu tiên trong lịch sử loài người là xã hội chiếm hữu nô lệ.
Xem tiếp giai đoạn lịch sử xã hội chiếm hữu nô lệ.
hay rất thuyết phục và dễ hiểu cảm ơn người viết nhé