Mục lục
Nguyên nhân
Nền kinh tế Latiphunđia, kinh tế Công thương nghiệp Rôma phát triển đòi hỏi số lượng lớn những người lao động để thực hiện chức năng sản xuất trên quy mô lớn trong các hầm mỏ, trong các xưởng làm gốm, thuộc da, chế rượu nho, các hoạt động phục dịch trong các chuyến buôn và thuyền chiến, trong các Latiphunđia rộng lớn… Lực lượng lao động trong đám bình dân Rôma ngày một suy giảm, các cuộc chinh chiến miên man đã tiêu huỷ khá nhiều sức lao động của người bình dân.
Theo thống kê sơ bộ, chỉ tính riêng số cư dân tự do đàn ông có nghĩa vụ quân sự, sau chiến tranh Punic lần thứ nhất đã giảm mất 3 vạn người, lần thứ 2 là 7 vạn. Mặt khác tình trạng tập trung ruộng đất cao độ ở Rôma đã làm cho nhiều nông dân mất đất, phá sản, không có điều kiện tự mình tiến hành sản xuất, một số phải đi làm thuê, nhận ruộng đất lĩnh canh với tô thuế quá cao. Một số khác phải rời bỏ làng quê ra các thành thị kiếm sống bằng mọi nghề với tiền công rẻ mạt. Hoặc dựa nhờ vào sự bố thí, bảo trợ của bọn quý tộc để cuối cùng trở thành một lực lượng được bọn giàu có, quý tộc và cả nhà nước cứu tế lợi dụng biến thành những công cụ trong các cuộc tranh cử (kể cả việc bỏ phiếu ủng hộ hoặc những hành động hành hung, ám sát nếu cần thiết).
Lâu dần, tầng lớp này mất tập quán lao động, thậm chí khinh miệt lao động và hoàn toàn ăn bám xã hội. Người đương thời gọi họ là dân “Pơlep thành thị” (plebs urbana) còn Mác gọi họ là tầng lớp vô sản lưu manh sống nhờ vào xã hội.
Lực lượng sản xuất dựa vào đám bình dân Rôma ngày một suy giảm, trong khi đó Rôma lại có thừa khả năng cung cấp một nguồn lao động mới, đông đảo, chi phí ít nhưng bóc lột thoả sức. Đó chính là những nô lệ vì nợ, nô lệ do bọn cướp biển bắt cóc đem bán, và đặc biệt là những nô lệ chiến tù được bán buôn một cách phổ biến trên địa bàn rộng với số lượng lớn và giá cả rẻ mạt. Chỉ tính riêng 3 cuộc chiến tranh với Cáctagô, quý tộc chủ nô Rôma đã có trong tay 95.000 tù binh để biến thành nô lệ, còn riêng trận thắng Xácđen đã cung cấp 80.000 nô lệ cho hoạt động kinh tế, xã hội Rôma.
Như vậy, cả về 2 phương diện: nhu cầu và khả năng cung cấp sức lao động với số lượng lớn, Rôma đều có thể và có điều kiện để thực hiện. Do vậy không ở đâu chế độ chiếm nô – một chế độ kinh tế – xã hội dựa chủ yếu trên sức lao động của nô lệ, bóc lột nô lệ – hình thức bóc lột đầu tiên, thô bạo nhất của xã hội có giai cấp – lại có điều kiện và thực sự đã phát triển mạnh mẽ như ở Rôma, và cũng chưa ở nơi nào chế độ nô lệ lại được sử dụng rộng rãi và khắc nghiệt như ở Rôma.
Số lượng và nguồn gốc nô lệ
Số lượng
Số lượng nô lệ ở Rôma là bao nhiêu và so với người tự do thì chiếm tỉ lệ như thế nào? Đó là vấn đề mà cho tới nay, vẫn chưa được xác định cụ thể và còn nhiều ý kiến khác nhau. F.Enghen cho rằng “dân số nô lệ lấn át dân số nông dân”, còn các nhà sử học lại đưa ra những ý kiến trái ngược nhau, Valông – nhà sử học Pháp thế kỉ XIX – đã cho rằng số nô lệ và người tự do cân bằng nhau theo tỉ lệ 1/1 (50% nô lệ và 50% tự do). Nhà sử học Đức Bêlốc (cuối XIX đầu XX) lại xác định tỉ lệ 3/5 (37,5% nô lệ, 62,5% tự do), trong khi đó Vexcheman – nhà sử học người Đức thế kỉ XX – lại đưa ra một tỉ lệ khác 1/2 (33% nô lệ/67% tự do)…
Nguồn gốc
Nô lệ ở Rôma có nhiều nguồn gốc khác nhau.
Nguồn cung cấp nô lệ quan trọng nhất là tù binh. Mỗi lần chinh phục được miền đất nào đặc biệt là những vùng có thái độ thù địch phản kháng người Rôma, Rôma đã biến phần lớn binh sĩ và cư dân ở đó thành tù binh và bán làm nô lệ.
Thí dụ, sau cuộc chiến tranh Punic lần thứ III, 50.000 cư dân Cáctagô sống sót đều bị biến thành nô lệ. Đánh chiếm xứ Epia năm 167 TCN, Rôma đã bắt được 150.000 người ở đó bán làm nô lệ. Tuy nhiên, nguồn cung cấp nô lệ chủ yếu này phụ thuộc và gắn bó chặt chẽ với việc mở rộng chiến tranh xâm lược và với việc mở rộng cương vực đế quốc Rôma. Chiến tranh càng nhiều, lãnh thổ càng mở rộng, những vùng đất chiếm được càng lớn thì số lượng nô lệ tù binh càng tăng và ngược lại. Do vậy, nô lệ tù binh vừa là cơ sở cho sự tồn tại, phát triển của chế độ chiếm nô, lại vừa là nguyên nhân để dẫn đến sự tiêu vong của chế độ này.
Nguồn nô lệ thứ hai là nô lệ vì nợ. Mặc dù, theo đạo luật Pêtêliuxơ, năm 326 TCN, Rôma đã bãi bỏ chế độ nô lệ vì nợ, nhưng đạo luật này chỉ áp dụng cho cư dân Italia, còn ở các tỉnh của Rôma, tình trạng người nghèo bị cưỡng đoạt ruộng đất, nợ phải gán mình và gia đình làm nô lệ cho chủ vẫn là hiện tượng phổ biến.
Nguồn nô lệ thứ ba là từ phía những người bị bọn cướp biển bắt cóc. Bọn hải tặc hoạt động trắng trợn ở vùng biển Địa Trung Hải, bất chấp luật pháp, đã cướp tàu thuyền, cướp của, bắt người (kể cả những người ở ven biển) đem bán làm nô lệ.
Nguồn nô lệ thứ tư là nguồn nô lệ do nữ nô sinh ra. Mặc dù số lượng không nhiều, song chủ nô không phải bỏ tiền ra mua; hơn nữa, loại nô lệ này nuôi từ nhỏ nên dễ sai khiến. Do vậy, bọn chủ nô rất khuyến khích, thậm chí cá biệt có vùng (như vùng đảo Xixin), một số chủ nô đã tiến hành kinh doanh lập trại để chuyên nuôi nữ nô sinh đẻ.
Ngoài 4 nguồn nô lệ kể trên, cũng còn phải kể tới số lượng nô lệ có nguồn gốc từ đám trẻ lang thang, mồ côi vô thừa nhận được gia chủ đem về nuôi và biến thành nô lệ.
Có thể nhận xét nguồn nô lệ ở Rôma khá phức tạp, có nô lệ là người nước ngoài, có nô lệ là người Rôma. Nguồn cung cấp nô lệ cũng không ổn định và không đồng đều, trong số đó, nguồn nô lệ từ đám tù binh là có ý nghĩa hơn cả trong sự tồn vong của chế độ chiếm nô Rôma.
Vai trò và thân phận nô lệ
Không ở đâu lao động của nô lệ lại được sử dụng với quy mô lớn và trên một bình diện rộng trong tất cả các hoạt động kinh tế, xã hội như ở Rôma. Tuy nhiên, Rôma vốn là một nước nông nghiệp với sự phát triển mạnh mẽ của các Latiphunđia, do vậy, số nô lệ dùng trong nông nghiệp chiếm tỉ lệ cao hơn so với các ngành khác. Trong các Latiphunđia, hàng nghìn nô lệ làm việc tập thể dưới sự giám sát chặt chẽ, tàn bạo dưới những làn roi vọt của những tên quản lí thân tín của chủ nô.
Với những công cụ sản xuất thô sơ, cổ lỗ, nô lệ hầu như làm việc suốt ngày và đảm nhận toàn bộ hoạt động: canh tác nông nghiệp từ làm đất, gieo trồng, chăm sóc đến thu hoạch mùa màng.
Lao động của nô lệ cũng được sử dụng triệt để trong các xưởng thủ công của tư nhân và của nhà nước trên đất Italia cũng như ở các “tỉnh” của Rôma, từ những xưởng thủ công sản xuất hàng tiêu dùng như đồ da, đồ gốm, quần áo, đồ trang sức cho tới những xưởng chế biến rượu nho, ô liu, xưởng sản xuất vũ khí và những hầm mỏ khai thác kim loại. Thông thường, mỗi xưởng thủ công chỉ dùng vài trăm nô lệ, nhưng cá biệt ở một số ngành thủ công cũng như trong khai thác các mỏ bạc ở Tây Ban Nha, chủ nô đã sử dụng tới sức lao động của hơn 40.000 nô lệ. Trong thủ công nghiệp, chủ nô bóc lột sức lao động của nô lệ bằng nhiều cách : trực tiếp sử dụng lao động nô lệ trong các xưởng, hầm mỏ của mình, hoặc có thể cho các chủ nộ khác thuê.
Trong các thương thuyền ở khắp Địa Trung Hải, Hồng Hải, chủ nô cũng sử dụng sức lao động nô lệ khuân vác, bốc xếp, dỡ hàng hóa, chèo thuyền…
Ngoài số nô lệ bị sử dụng trong các hoạt động kinh tế, trực tiếp sản xuất, số nô lệ đùng để phục vụ trong các gia đình chủ nô cũng khá đông đảo.
Nô lệ được sử dụng từ những công việc giản đơn như: gác cổng, quét dọn nhà cửa, chăm sóc gia cầm, giữ ngựa, nấu bếp, hầu hạ cho tới những việc phức tạp như quản lý, giáo viên, thư kí, kế toán, nhạc công, vũ nữ… chủ nô đều sử dụng triệt để lao động nô lệ. Ngoài ra ở Rôma, chủ nô còn lập những trường đào tạo và trường đấu để huấn luyện một số nô lệ có sức khoẻ, biến họ thành những đấu sĩ (Gladiato) mua vui cho chúng trong các trận tử chiến với Gladiato khác hoặc với thú dữ.
Nô lệ giữ vai trò quan trọng như vậy, nhưng đời sống và thân phận của họ lại vô cùng thấp kém. Nô lệ không được coi là người và hoàn toàn lệ thuộc vào chủ nô. Nô lệ không có tài sản và cũng không có quyền sở hữu tài sản, nô lệ đo chủ nô bỏ tiền ra mua về, nuôi và có nghĩa vụ phải lao động phục dịch cho chủ nô. Hãn hữu cũng có một số chủ nô giao cho nô lệ tin cần, có khả năng, một số vốn liếng để buôn bán hoặc đất đai để canh tác, nhưng trên nguyên tắc những tài sản ấy vẫn hoàn toàn là của chủ nô. Nô lệ cũng không được tự mình ra trước tòa án, trong trường hợp nô lệ phạm tội.
Luật pháp cũng không thừa nhận hôn nhân giữa người nô lệ, do vậy từ sự chung đụng không được coi là hợp pháp, nếu có con thì con cái đó thuộc quyền sở hữu của chủ nô. Nó lệ được coi là thứ “Công cụ biết nói”, “công cụ biết kêu”, là gia súc. Chủ nô có quyền sinh, sát với nô lệ, có quyền bán, mua, đổi chác, chuyển nhượng, thừa kế, thậm chí cả quyền giết chết nô lệ mà hoàn toàn hợp pháp.
Theo phương châm: Sử dụng nhiều nhất, nhưng chi phí ít nhất, bọn chủ nô Rôma đã không thương tiếc, vắt kiệt sức lao động của họ. Do vậy, đời sống nô lệ Rôma vô cùng khổ cực. Một năm nô lệ chỉ được phép nghỉ hai ngày trong dịp lễ, những ngày còn lại, họ phải làm việc cật lực trong các Latiphunđia, các hầm mỏ, các xưởng thủ công, các bến cảng, trên các loại thuyền buồn, thuyền chiến. Ở một số nơi và với một số loại nô lệ (như chiến tù Cáctagô), nô lệ còn bị bắt lao động trong khi chân tay vẫn đeo xiềng xích. Khẩu phần lương thực chủ nô dành cho nô lệ không theo quy định, thất thường và có phân hóa. Những ngày lao động nặng nhọc, ngày thu hoạch, mỗi nô lệ có thể được hưởng xuất ăn là 3 bảng (= 327.5 gram) trong một ngày, những hôm mưa gió, hoặc lao động nhẹ, khẩu phần sẽ giảm xuống. Đói, khát, bệnh tật luôn là bạn đồng hành của đời sống nô lệ.
Sức lao động của nô lệ đã đem lại cho chủ nô những nguồn lợi khổng lồ, đã tạo ra cuộc sống đế vương cho các chủ nô, bộ mặt phồn thịnh của kinh tế xã hội Rôma. Nhưng mặt khác, nó lại là nguyên nhân chính dẫn đến sự suy yếu của chế độ nô lệ, bệnh tật, ốm đau và những nỗi nhọc nhằn, quá sức đã giết đi một lượng nô lệ khá lớn, dẫn đến sự phản kháng thường xuyên và ngày một quyết liệt của nô lệ.
Lịch sử thế giới cổ đại - NXB Giáo dục,