Ở thời kì phát triển của thị tộc mẫu hệ, sự công bằng và bình đẳng là “nguyên tắc vàng” của công xã thị tộc. Đó là cái tốt đẹp, cái “vĩ đại” của xã hội nguyên thủy. Nhưng cái “vĩ đại’’ ấy chỉ xuất hiện trên cơ sở và tồn tại trong khuôn khổ của một nền sản xuất thấp kém, khi chưa xuất hiện của dư thừa. Hay nói cách khác, cái “vĩ đại” của xã hội nguyên thủy chỉ xuất hiện và tồn tại trong khuôn khổ của sự “chật hẹp” về trình độ sản xuất.
Trong suốt thời gian dài, công cụ lao động của con người chủ yếu bằng đá, một thứ nguyên liệu vừa cứng, vừa giòn, rất khó ghè đẻo. Một cải tiến nhỏ trong cách ghè đẻo để làm thay đổi chút ít hình dáng công cụ cũng đòi hỏi hàng nghìn năm, có khi hàng vạn năm tích lũy kinh nghiệm. Điều đó giải thích vì sao sau này khi con người biết đến những kĩ thuật mới như khoan, cưa, mài đá (ở thời đại đồ đá mới). Đặc biệt khi tìm ra nguyên liệu mới là kim loại thì tốc độ phát triển của xã hội tăng nhanh hơn gấp nhiều lần.
Sự thay đổi căn bản đã bắt đầu từ khoảng thiên niên kỉ IV TCN, khi con người phát minh ra và biết sử dụng công cụ bằng đồng. Lúc đầu, có thể người ta đã phát hiện ra đồng một cách ngẫu nhiên. Trong đám tro tàn sau những vụ cháy rừng hay trong đám nham thạch do núi lửa phun ra, người ta nhặt được những thỏi đồng đã bị nóng chảy và vón cục lại. Đó là đồng đỏ. Loại đồng này có đặc tính rất mềm và dẻo nên dễ ghè, đập thành những công cụ hoặc đồ dùng có hình dáng theo ý muốn. Vào khoảng 5500 năm trước đây, dân Tây Á và Ai Cập đã biết sử dụng đồng đỏ. Đến khoảng 4000 năm trước đây thì nhiều cư dân trên Trái Đất đã biết dùng đồng thau.
Từ đồng thau, người ta đã biết chế tạo ra những lưỡi cày, lưỡi cuốc, rìu, dao, liềm,… rất giống với những công cụ ngày nay. Đến khoảng cuối thiên kỉ thứ II, đầu thiên niên kỉ thứ I TCN, người ta lại biết chế tạo những công cụ này từ sắt – một thứ kim loại cứng và sắc hơn đồng rất nhiều. Sắt cho phép người ta có thể trồng trọt trên những diện tích lớn hơn, có thể khai hoang những vùng rừng rú rộng lớn hơn. Sắt khiến cho người thợ thủ công có được một công cụ cứng và sắc mà không có loại đá nào hay loại kim khí quen thuộc nào có thể đương đầu với nó được.
Nhờ tích lũy được nhiều kinh nghiệm sản xuất và chế tạo được nhiều loại công cụ thích hợp, con người đã biết khai hoang, mở rộng diện tích trồng trọt. Họ đã biết dùng những chiếc cày bằng gỗ, có lưới bằng kim loại do súc vật kéo. Nông nghiệp dùng cày đã ra đời ở lưu vực những dòng sông lớn, nơi có đất đai rộng và màu mỡ, người ta còn biết lợi dụng những kì nước sông dâng cao, đào mương dẫn nước tưới vào đồng ruộng, hoặc ngược lại, biết đắp đê ngăn lũ để bảo vệ mùa màng.
Cùng với ngành nông nghiệp, ngành chăn nuôi cũng phát triển mạnh mẽ. Nhờ có năng suất lao động ngày càng tăng, ngành trồng trọt không những cung cấp đủ lương thực cho những người chuyên làm nông nghiệp, mà còn có một phần dư thừa dùng cho những người chuyên nghề chăn nuôi. Vì thế ở những nơi có nhiều đồng cỏ, một số bộ lạc đã chuyển hẳn sang sống bằng kinh tế du mục hay nửa du mục. Họ chăn nuôi từng đàn súc vật lớn trên những thảo nguyên mênh mông.
Việc sử dụng nguyên liệu đồng và sắt đòi hỏi nghề thủ công phải không ngừng tích lũy kinh nghiệm và đi vào chuyên môn hóa để nâng cao chất lượng sản phẩm. Cùng với nghề luyện kim, nghề dệt vải, chế tạo đồ gốm, đồ mộc,.. cũng có những yêu cầu cao về kĩ thuật đối với người thợ. Những yêu cầu kĩ thuật đó dần dần trở thành những “bí quyết nhà nghề” của một nhóm người, thậm chí của cả một thị tộc nào đấy và được lưu truyền từ thế hệ này qua thế hệ khác. Thủ công nghiệp đã trở thành một ngành sản xuất độc lập và đóng một vai trò hết sức quan trọng trong đời sống kinh tế của người nguyên thủy.
Sự chuyên môn hóa trong sản xuất đã làm nảy sinh nhu cầu trao đổi sản phẩm giữa các vùng và các bộ lạc với nhau. Đồng thời quá trình trao đời sản phẩm đó đã làm xuất hiện một tầng lớp người “trung gian không thể thiếu được giữa hai hạng người sản xuất và bóc lột cả đôi bên”.
Xem thêm lịch sử xã hội chiếm hữu nô lệ
Như thế, sự phát triển của lực lượng sản xuất đã dẫn đến sự chuyên môn hóa trong sản xuất và trao đổi sản phẩm. Đến lượt mình, quá trình chuyên môn hóa sản xuất lại có tác dụng thúc đẩy tăng năng suất lao động, tạo ra sản phẩm ngày càng nhiều cho xã hội. Đây thực sự là một cuộc cách mạng trong sản xuất, vì lần đầu tiên trên chặng đường dài của lịch sử, suốt thời kì đồ đá, con người từ chỗ sống bấp bênh, đến chỗ tìm kiếm đủ thức ăn nuôi sống mình và lúc này, vào buổi đầu thời đại kim khí, sản phẩm họ làm ra không những chỉ đủ ăn, mà còn dư thừa thường xuyên.
Lịch sử thế giới cổ đại - NXB Giáo dục,
Cái này chung chung quá, nên làm kĩ càng về phần thời gian của các thời đại tồn tại,…