Lịch sử Việt Nam, vua Lý Nhân Tông niên hiệu Quảng Hựu
Ất sửu, [Quảng Hựu] năm thứ 1 [1085], (Tống Nguyên Phong năm thứ 8). Cho Lê Văn Thịnh làm Thái sư. Bấy giờ thiên hạ vô sự, Hoàng hậu đi chơi khắp các nơi núi sông, ý muốn xây dựng chùa tháp.
Bính Dần, [Quảng Hựu] năm thứ 2 [1086], (Tống Triết Hú, Nguyên Hựu năm thứ 1). mùa xuân, Nguyễn Viễn dâng con rùa 6 chân, trên lưng có vạch chữ.
Mùa thu, tháng 8, thi người có văn học trong nước, sung làm quan ở Hàn lâm viện, Mạc Hiển Tích trúng tuyển, bổ làm Hàn lâm học sĩ.
Làm chùa ở núi Đại Lãm.
Đinh Mão, [Quảng Hựu] năm thứ 3 [1087], (Tống Nguyên Hựu năm thứ 2). Mùa xuân, tháng 3, dựng bí thư các.
Nhà Tống phong làm Nam Bình Vương.
Mùa đông, tháng 10, vua ngự đến chùa Lãm Sơn. Đêm ban yến cho các quan, vua thân làm hai bài thơ Lãm Sơn dạ yến.
Mậu Thìn, [Quảng Hựu] năm thứ 4 [1088], (Tống Nguyên Hựu năm thứ 3). Mùa xuân, tháng giêng, phong nhà sư hô Đầu làm Quốc sư (có thuyết nói là cho tiết việt, cùng với Tể tướng đứng trên điện, xét đoán công việc và đơn từ kiện tụng của thiên hạ, chưa chắc là có thể, có lẽ bấy giờ Nhân Tông sùng đạo Phật, phong làm Quốc sư để hỏi việc nước, cũng như Lê Đại Hành đối với Ngô Khuông Việt mà thôi). Đặt chức thư gia mười hỏa.
Định các chùa trong nước làm ba hạng đại, trung và tiểu danh lam, cho quan văn chức cao kiêm làm đề cử. Bấy giờ nhà chùa có điền nô và kho chứa đồ vật, cho nên đặt chức ấy.
Mùa đông, tháng 10, xây tháp chùa Lãm Sơn.
Kỷ Tỵ, [Quảng Hựu] năm thứ 5 [1089], (Tống Nguyên Hựu năm thứ 4). Mùa xuân, tháng 3,
định các chức văn võ, quan hầu vua và các chức tạp lưu.
Quân nhà Tống /xâm phạm/ vào châu Thạch Tê 3 .
Đào ngòi lãnh kinh 4 .
Canh Ngọ, [Quảng Hựu] năm thứ 6 [1090], (Tống Nguyên Hựu năm thứ 5). Làm cung hợp hoan.
Tân Mùi, [Quảng Hựu] năm thứ 7 [1091], (Tống Nguyên Hựu năm thứ 6). Mùa xuân, vua ngự đến Lạng Sơn xem bắt voi. Mùa Đông, tháng 11, cho Hà Ư làm Thiếu úy tri điện tiền chư quân sự.
Lê Toàn Nghĩa dâng con rùa năm sắc.
Nhâm Thân, [Quảng Hựu] năm thứ 7 [1092], (Tống Quang Hựu năm thứ 8), (từ tháng 8 về sau là niên hiệu Hội phong năm thứ 1; Tống Nguyên Hựu năm thứ 7). Mùa Thu, tháng 8 đổi niên hiệu làm Hội Phong năm thứ 1.