Truyền thuyết Đức Thánh Tản Viên

Khi qua vùng sông Tích.

Thấy cả một vùng rộng lớn đất đai phì nhiêu (nay là xã Liệp Tuyết, Quốc Oai) mà tịnh không có cây lúa nào, chỉ thấy lau lách mọc đầy. Sơn Tinh cho gọi dân làng lại, bày cho họ cách đắp bờ giữ nước rồi phát hoang cỏ dại. Tiếp đến, chàng lại cho họ một ít hạt giống dao mang theo sẵn bên mình, và bày cho họ cách gieo mạ. Đến khi mạ lên xanh, chàng lại cho họ làm theo mình: nhổ mạ rồi chia ra từng vài dảnh một, cấy xuống các thửa ruộng đã be bờ, vơ cỏ, cày cuốc trước kia.

Đến mùa thu hoạch, dân làng cho người đi mời chàng đến để dự tiệc mừng. Thấy mọi người chỉ biết ăn uống và chuyện trò, cười đùa không có trò vui nào cả, Sơn Tinh gọi trai gái làng lại, bày cho họ cách múa hát. Trước khi về nhà, chàng lại dặn hàng năm cứ đến sau kỳ thu hoạch thì lại mở hội và múa hát mừng mùa như thế này. Lâu dần rồi thành lệ, bây giờ ở đấy gọi là hội múa Rô.

Cũng ở vùng sông tích, nơi mà Sơn Tinh vẫn thường hay qua lại, tôm cá có rất nhiều, nhất là vào những tháng lũ lụt, nước sông dâng lên cao. Bấy lâu, dân chúng trong vùng này mới chỉ biết mò cá bằng tay hoặc cùng lắm dùng nom để úp. Sơn Tinh, cho biết cách kiếm cá bằng lưới đan của người vùng biển, nên đã bày lại cho dân ở đây. Trước hết chàng bảo mọi người đi tìm cây gai là loại cây có ỏ mềm và dai về trồng. Đến kỳ cây lớn, chàng bảo họ tước lấy vỏ cây và xé nhỏ ra thành những sợi nhỏ và bền. Đem đan các sợi này vào nhau tạo thành các loại vó và lưới, sẽ đánh bắt được nhiều cá.

Nhờ các loại lưới và vó ấy của Sơn Tinh mà dân ở vùng sông Tích đánh bắt được rất nhiều cá các loại. Sau này, để tưởng nhớ công ơn của chàng, ở vùng này có tục đánh cá thờ hàng năm để cúng. Tất nhiên, đấy phải là các loại cá quý hiếm và thật lớn, bởi vì lòng thành kính đòi hỏi phải được biểu lộ ra như vậy.

Công ơn dạy dân biết thêm nhiều nghề mới để sinh sôi phát triển của Sơn Tinh kể ra còn thêm nhiều nữa, mà trên đây là một ví dụ.

Ở khắp vùng truyền thuyết Sơn Tinh, chỗ nào cũng thấy ghi công đức của chàng, và lưu truyền đến tận ngày nay.

Lại kể về nàng Mỵ Nương, vợ của chàng Sơn Tinh khả kính, cũng là người đã để lại nhiều công đức với dân chúng và được lưu truyền.

Ấy là việc nàng dạy cho các bà các cô trong vùng núi Tản quê chồng biết nghề chăn tằm và ươm tơ dệt lụa, để may quần áo. Trước đó, nghề này mới chỉ lưu truyền ở vùng Phong Châu, vốn là Kinh đô của nước Văn Lang cũ. Đây là nghề tuy rất thiết yếu, nhưng chỉ các bà Hoàng hậu, công chúa và cung tần thân tín mới được chỉ dẫn cách thức và các bí quyết hành nghề. Lụa là, do vậy, mới chỉ được dùng trong hoàng tộc và nhà các đại thần (Lạc hầu, Lạc tướng), còn dân chúng và quân lính chỉ mới biết dùng các loại vải bằng xô gai lấy từ vỏ cây mà thôi.

Mỵ Nương vốn là nàng công chúa của vua cha và hoàng hậu, nên ngay từ bé đã rất thành thạo nghề chăn tằm và ươm tơ dệt lụa. Nàng dạy lại cho các bà các cô ở vùng này biết được ghề đó. Những nương dâu bạt ngàn mọc lên ở ven sông. Nhà nào cũng có người chăn tằm, dệt lụa. Lụa ở vùng này, ngay từ thời đó, đã nổi tiếng khắp cả nước. “Ăn quả nhớ kẻ trồng cây”, hàng năm Mỵ Nương đều cho chọn một vài xúc lụa đẹp nhất, để đưa về Kinh, cung tiến vua cha và hoàng hậu.

Dân chúng trong vùng vốn chăm chỉ, lại thấm nhuần sâu sắc ý thức ơn nghĩa, nên vẫn duy trì đến mãi sau này hội tiến lụa có từ thời Mỵ Nương vậy. Đám rước diễu hành theo thứ tự: Một người đầu mang nong ké, vừa đi vừa múa hát. Theo sau là những cô gái óng ả mặc toàn đồ tơ lụa, tay cắp rổ lá dâu, cũng vừa đi vừa múa hát. Thứ đến là một chiếc kiệu chất đầy lụa quý, do16 chàng trai lực lưỡng ăn mặc đẹp đẽ, khiêng. Dân chúng theo sau, vừa đi vừa reo hò để hôï tống.

Sự tích, và nhất là công đức của Sơn Tinh Mỵ Nương đến nay vẫn còn được lưu truyền và in rất đậm trong tâm thức dân gian của người Việt. Cả một vùng truyền thuyết rộng lớn với nhiều nghi lẽ hội hè đã nhắc lại quá khứ vinh quang của hai ông bà. Ngoài danh vị ” Thánh bất tử”, hai ông bà còn được tôn xưng là “Đệ nhất danh sư” trong “Bách nghệ tổ sư” của nước Nam ta.

Cao Biền là viên quan cai trị gian ngoa xảo quyệt, biết thiên văn địa lý lại tinh thông tướng số. Khi vua Đường sai sang dẹp quân Nam chiếu rồi ở lại làm Tiết độ sứ (866 – 874), y đã từng đi khắp nơi trong nước ta, thấy chỗ nào “địa linh” là tìm cách yểm bùa để diệt “nhan kiệt”. Pháp thuật của y là bắt một người con gái mười bảy tuổi chưa chồng, đem mổ bụng vứt ruột đi, rồi lấy cỏ bấc nhồi vào, đoạn, mặc quần áo cho tử thi, đặt ngồi trên ngai.

Y đem các thứ đó đến huyệt định yểm, rồi tế bằng trâu bò và đọc thần chú. Hễ khi thấy tử thi động đậy, tức là thần linh ở đấy đã nhập vào tử thi, là y dùng kiếm chém đầu để diệt, tức là đã trừ yểm xong.

Khi đến chân núi Tản Viên, y cũng làm như thế, vì biết ở đây có vị thánh bất tử linh thiêng vào bậc nhất của nước Nam. Nhưng khi tế lễ, đọc thần chú, bắt quyết … Biền thấy tử thi cứ trơ trơ ra chẳng cử động gì.

Đấy chính lúc Thanh Tản Viên cưỡi ngựa trắng ngồi trên mây bay ngang qua, nhìn thấy. Để tỏ ý khinh bỉ trò khôi hài của Biền, Ngài bèn nhổ xuống một bãi nước bọt, rồi bỏ đi, không thèm nói năng.

Cao Biền thấy vậy cả sợ, bèn dẹp ngay trò quỷ thuật lại, rồi than rằng: “Linh khí phương Nam không thể lường được. Vượng khí ở đây không bao giờ dứt. Ta phải về thôi”. Về sau, quả nhiên Cao Biền được lệnh phải triệu hồi về nước, rồi chết sau đó mấy tháng.