Lược khảo biên niên lịch sử thế giới cổ đại

Cách ngày nay hơn 3 triệu năm:

Loài người bắt đầu xuất hiện và sinh sống ở miền Đông Châu Phi.  

Cách ngày nay tử hơn 3 triệu năm đến 3 vạn năm:  

Thời kỳ loài người sống trong trạng thái mông muội, thành từng bầy, sử dụng những công cụ lao động bằng đá được chế tạo rất thô sơ – Thời sơ và trung kỳ đá cũ – để hái lượm hoa quả, đào bới củ cây và săn bắt thú, cá, là những thức ăn có sẵn trong tự nhiên.

Trong quá trình lao động, cơ thể con người tự cải biến, hoàn thiện và phát triển dần tiếng nói. Việc phát hiện ra lửa, biết dùng lửa và biết cách làm ra lửa được coi là phát minh quan trọng nhất của thời kỳ này.

Cách ngày nay từ 3 (hoặc 4) vạn năm đến 6000 năm:

Thời kỳ loài người sống theo tổ chức thị tộc – tổ chức xã hội dựa trên quan hệ huyết thống. Hình thức tạp hôn chấm dứt, sản xuất có sự phát triển đáng kể, nhất là sự phát triển của công cụ lao động (từ thời hậu kỳ đá cũ sang thời đá giữa và thời đá mới) và sự xuất hiện của kinh tế sản xuất và chăn nuôi.

Tôn giáo và nghệ thuật cũng xuất hiện và đạt được những thành tụu nhất định. Sự chuyển biến sang xã hội thị tộc diễn ra đồng thời với sự hình thành Người hiện đại (Homo sapiens) hay còn gọi là người khôn ngoan Tân cổ.

Khoảng năm 4000 TCN:

Trên lưu vực Sông Nile (Ai Cập) bắt đầu diễn ra quá trình hình thành xã hội có giai cấp và Nhà nước sơ khai. Nhiều Quốc gia thành bang nhỏ xuất hiện.

Vào khoảng năm 3200 TCN, vùng Thượng và Hạ Ai Cập, theo truyền thuyết, được một ông Vua tên là Menes thống nhất lại. Vị Vua (Pharaoh) đầu tiên này đã xây dựng Thủ đô của Ai Cập ở Tinít.  

Năm 4000 TCN:

Người Urbaidians định cư ở vùng phía Nam Mesopotamia (Lưỡng Hà), xây dựng các thành thị ở Đồng bằng Tigris (tiếng Pháp: Tigre – Tigơrơ) và Euphrates (tiếng Pháp: Euphrate – Ơphơrát) đặt cơ sở cho nền văn minh sau này tại đây. Sau đó, các tộc người du mục từ Syne và Bán đảo Ả Rập tới xâm chiếm vùng này, sống hòa trộn với dân Urbaidians.

Năm 3500, TCN. Người Sumer có thể từ Châu Á tới, đã định cư ở lưu vực Sông Euphrate xây đập và phát triển một nền văn minh khá cao

Khoảng năm 3000 – 2000 TCN:

Thời kỳ Cổ vương quốc ở Ai Cập phát triển rất thịnh đạt, nghệ thuật và kiến trúc có nhiều thành tựu rực rỡ. Kim Tự Tháp, một trong bảy kỳ quan Thế giới Cổ đại, lần đầu tiên được xây dựng, nổi tiếng nhất là quần thể Kim Tư Tháp ở Giza, xây dựng vào khoảng từ năm 2753 – 2563 TCN.  

Năm 3000 – 1900 TCN:

Nền văn minh lưu vực Sông Ấn (Indus) ở phía Bắc Ấn Độ phát triển khá cao, xây dựng nhiều thành phố của Harappa và Mohenjo-Daro với những ngôi nhà sân rộng, đầy đủ tiện nghi có hệ thống thoát nước.

Khoảng năm 2800 TCN:

Người Đảo Crète (Hy Lạp) đã khai sáng nền văn minh Minoan, gọi theo tên vị Vua huyền thoại Minos của họ.

Từ năm 1700 đến 1400 TCN, văn hóa Minoan đạt tới sự huy hoàng nhất với nhiều lâu đài hùng vĩ, hệ thống cống rãnh quy mô và có nhiều sàn, hành lang, kho, xưởng, nhà ở, phòng hội đồng, công sở, những bằng chứng về trình độ kỹ thuât cao của người Crète {Crét).

Khoảng năm 2500 – 2000 TCN

Người Phenìcians (Phênìxi) sinh cơ lập nghiệp rất đông đúc trên bờ phía Đông Địa Trung Hải (Syrie và Li Băng hiện nay) và xây dựng nền văn minh của họ với những đô thị nổi tiếng như Tyre và Sidon.  

Khoảng năm 2325 TCN

Sargon Đại đế của Akkad chinh phục các Quốc gia của người Sumer (Sume) và xây đựng một Quốc gia Akkad – Sumer hùng mạnh. Lần đầu tiên trong lịch sử Lưỡng Hà, một vùng đất rộng lớn từ Vịnh Ba Tư đến thượng lưu của Sông Tigre đã được thống nhất. Sargon Đại đế còn chiếm cả miền ven bờ Biển Đen và một phần Tiếu A. Thời ấy, chưa một nước nào có lãnh thổ rộng lớn như vậy.  

Khoảng năm 2205 TCN

Nhà Hạ (2205 – 1766 TCN) triều đại đầu tiên của lịch sử Trung Quốc được thiết lập. Triều Hạ tồn tại đến năm 1766 TCN. Trong thời kỳ này người Trung Quốc sóm phát triển nghề trồng lúa, trống kê và chăn nuôi gia súc như ngựa…  

Khoảng năm 2000 TCN

Người Mycène (Misen) trên Bản đảo Hy Lạp bắt đầu xây dựng nền văn minh của mình và đạt được sự phồn thịnh vào lúc nền văn minh Minoarì bị tàn lụi (năm 1400 TCN). Từ đó, người Mycène thay thế người Crète thống trị khu vực Địa Trung Hải.  

Năm 1592 – 1750 TCN:

Vua Hammurabi (Hammurabì) cai trị Vương quốc Babylon (Babilon) cổ, đặt phần lớn Lưỡng Hà và Assyrie dưới quyền kiểm soát của Babylon. Hammurabi đã cho soạn thảo và ban hành bộ luật nổi tiếng mang tên ông, Luật Hammurabi*, đó là một trong những bộ luật thành văn cổ nhất Thế giới.

Năm 1567 – 1085 TCN:

Thời kỳ Tân vương quốc ở Ai Cập. Một giai đoạn của nền văn minh đạt tới đỉnh cao. Trong những năm 1292 đến 1225 TCN. Pharaon Ramsès II (Ramsét II) đã hoàn thành việc xây dựng các đền đài nổi tiếng ở Cacnat, Thebès, Luxo và Abu – Simben. Moses (Moixơ) dẫn người Hèbreux (Hêbơro: người Do Thái) trốn khỏi Ai Cập.

Năm 1500 – 500 TCN:

Người Aryan từ Trung Á xâm nhập lưu vực Sông Ấn ở miền Bắc Ấn Độ. Tại đây, họ tiếp thu văn hóa và kỹ thuật canh tác của người Dravidian và xây đắp nền văn minh của họ. Trong thời kỳ này, Thánh kinh Veda được viết ra, Đạo Bàlamôn được hình thành và chế độ đẳng cấp (varna) khắc nghiệt được thiết lập.  

Khoảng năm 1250 TCN:

Người Hèbreux (Hêbơrơ: Do Thái) tiến vào đất Canaan. Năm 1028 – 1004 TCN. Saun (Xaun) trở thành ông Vua đầu tiên của người Hèbreux. Quốc gia Palestine được thiết lập, Đạo Do Thái, được hình thành.  

Năm 1200 TCN:  

Nền văn hóa Nok (Nốc) của người đa đen ở Nigeria phát triển, được ghi trên những bức điêu khắc rất sinh động. Khoảng năm 200 TCN, nền văn hóa Nok bị tàn lụị.

Khoảng năm 1200 TCN:

Cuộc chiến tranh Hy Lạp Troie (Tơroa) xảy ra ác liệt và kéo dài trong nhiều năm, kết thúc bằng sự thắng lợi của Hy Lạp. Cuộc chiến tranh này đã được Homère (Hôme) nhà thơ nổi tiếng của Hy Lạp sống trong khoảng thời gian từ Thế kỷ XI đến Thế kỷ IX TCN, miêu tả trong hai tập trường ca của ông là lliade (I li át) và Odyssée (Ô đi xê).  

Khoảng năm 1050 TCN:

Chu Vũ Vương, thủ lĩnh của người Chu ở lưu vực Sông Kinh Thủy và Vị Thủy đã mang quân đội vượt Sông Hoàng Hà tấn công Kinh đô Triều Ca của nhà Thương. Vua cuối cùng của nhà Thương là Trụ không chống đỡ nổi, phải tự sát. Nhà Thương sụp đổ, nhà Chu được thiết lập. Chu Vũ Vương làm Thiên tử, lấy Cảo Kình làm kinh đô.

Khoảng năm 1050 – 771 TCN:

Trung Quốc trong thời kỳ đầu dưới sự thống trị của nhà Chu. Còn gọi là thời Tây Chu. Trong thời kỳ này Vua Chu phân phong Vương tộc và công thần đến các nơi làm chư hầu và xây dựng với quy mô lớn vùng Lạc ấp lâm Đông Đô.

Ngoài nhà Vua, trong bộ máy Nhà nước thời Chu còn có các chức Tư đồ, Tư mã, Tư không, Tư khấu nắm giữ công việc tài chính, quân sự, công trình công cộng, hình pháp. Vua và quý tộc đều cha truyền con nối. Nhờ chính sách phân phong ruộng đất, nền chính trị thời Tây Chu khá ổn định, kinh tế và văn hóa đều đạt được sự cường thịnh.

Năm 1027 – 211 TCN:

Nhà Chu (Trung Quốc) thay thế triều đại nhà Thương, đưa xã hội cổ đại Trung Quốc vào thời kỳ phát triển nhất. Trên lĩnh vực văn hóa tư tưởng thời Chu có nhiều học giả xuất sắc, tiểu biểu là Khổng Tử và Lão Tử.

Năm 910 – 606 TCN:

Thời kỳ cường thịnh của đế quốc Assyrie (átxiri). Assyrie lần lượt chinh phục Lưỡng Hà, Phénicie Uratu và Syria.

Năm 721 đến 705 TCN, Assyrie hoàn thành việc chinh phục Israel, buộc phần lớn người Israel phải đi lưu vong.

Năm 705 đến 681 TCN, Vua Sennacherib (Sen nasơríp) của Assyrie phá hủy Babylone và xây dựng cung điện nổi tiếng ở Nineveh (Ninevơ).

Khoảng năm 850 TCN:

Vua nhà Chu (Trung Quốc) là Chu Lệ Vương cùng một số quý tộc chiếm nguồn lợi rừng núi, sông hồ, vốn là tài sản chung của các công xã nông thôn và đàn áp những người chống đối.

Năm 841 TCN nhân dân nổi dậy tấn công cung Vua, đuổi Lệ Vương. Quyền lực nhà Vua được giao cho hội nghị quý tộc, trong lịch sử gọi là “cộng hòa”. Từ năm đó, lịch sử Trung Quốc bắt đầu có ghi chép năm tháng rõ ràng.

Năm 814 TCN:

Quốc gia Carthage (Cáctagiơ), thực dân địa nổi tiếng của người Phenicians (Phênixi) được thành lập. Dần dần Carthage trở thành một đế quốc thương nghiệp giàu mạnh, có lãnh thổ bao gồm hầu như toàn bộ miền ven biển và các đảo ở phía Tây Địa Trung Hải. Carthage bị hủy diệt sau cuộc chiến tranh Punic với người La Mã

Khoảng năm 800 – 700 TCN

Nhà nước của người Hy Lạp ra đời, đánh dấu bằng sự xuất hiện các Quốc gia thành bang, nổi tiếng nhất là hai thành bang Sparte – Athènes (Xpác và Athens). Chế độ chính trị thành bang này được bảo tồn trong mội thời gian dài.

Năm 338 TCN, người Macedoine chinh phục và thống nhất Hy Lạp.

Năm 776 TCN:

Thế vận hội lần đầu tiên được tổ chức ở Hy Lạp, bắt nguồn từ việc người Hy Lạp thường xuyên rèn luyện thân thể để trở thành chiến sĩ vô địch. Bốn năm một lần, họ tổ chức tại vùng Olympia một đại hội điển kinh để đua tài các môn: vật, chạy đua, nhảy cao, ném lao, ném đĩa, cưỡi ngựa… cho tới nay, những đại hội điền kinh Quốc tế vẫn gọi là Thế vận hội Olympic.  

Năm 771 TCN

Người Khuyển Nhung đánh phá cảo Kinh, Vua nhà Chu là U Vương bị giết dưới chân Núi Lộc Sơn, người Khuyển Nhung chiếm lưu vực Sông Vị Thủy. Cùng năm đó, Thái tử Nghi Cữu lên làm Vua nhà Chu gọi là Chu Bình Vương. Bình Vương dời dô sang đất Lạc ấp ở phía Đông, lịch sử gọi là Đông Chu (Năm 771 – 221 TCN).

Năm 771 – 481 TCN:

Trung Quốc trong thời kỳ Xuân Thu – giai đoạn đầu của Đông Chu, Bấy giờ uy tín của Vua nhà Chu đã sút kém, một số nước chư hầu dần dần lớn mạnh không thần phục nhà Chu, chủ yếu có; Tề, Tấn, Sở, Tần, Ngô và Việt.

Đặc trưng của lịch sử thời kỳ này là: sản xuất nông nghiệp sử dụng nông cụ bằng sắt, dùng bò cày ruộng, chế độ công hữu ruộng đất dần dần tan rã, chế độ tư hữu ruộng đất xuất hiện. Về chính trị, các chư hầu tranh giành, lấn át nhau, chiến tranh liên miên không ngớt.

Thời kỳ Xuân Thu xuất hiện hai nhà tư tưởng lớn là Lão Tử và Khổng Tử.

Năm 753 TCN:

Các bộ lạc Latinh ở Bán đảo Italia đã xây dựng Thành Roma trên bờ Sông Tigre lấy tên từ nhân vật truyền thuyết Romulus, được coi là ngưài sáng lập thành thị. Từ đây, đánh dấu sự xuất hiện của Nhà nước Roma.

Khoảng năm 750 TCN:

Người Kushites (Cusít) định cư ở Sudan (Xuđăng) mở mang nền văn minh, xây dựng các lâu đài, các tháp và buôn bán với La Mã, Ấn Độ. Ông Vua cuối cùng của họ mất năm 320. Đến năm 350 Thủ đô của người Kushites rơi vào tay người Ethiopian và chịu khuất phục.

Năm 605 – 539 TCN:

Thời kỳ tồn tại của vương quốc Tân Babylone ở Lưỡng Hà đã đạt tới sự phát triển huy hoàng. Babylone, với Vườn treo (một trong bảy kỳ quan của Thế giới cổ đại) là thành phố lớn nhất thời bấy giờ.

Năm 594 TCN

Solon (Sõlông) tiến hành cải cách về hiến pháp và xã hội ở Athènes, xây dựng nền dân chủ chủ nô hạn chế.

Năm 586 TCN:

Babylone (Babilon) chiếm Jeruzalem (Giêrusalem) phá hủy Đền thờ Salomon (Salômôn) và đưa dân Do Thái trở lại Babylone.

Khoảng năm 563 – 483 TCN:

Đức Phật Thích Ca Mâu Ni (Sakya Muni) truyền đạo ở Ấn Độ, đánh dấu thời kỳ đạo Phật hình thành.

Khoảng năm 551 – 479 TCN:

Khổng Tử giảng đạo lý ở Trung Quốc, đồng thời tập hợp và chỉnh lý các sách Thi, Thư, Lễ, Nhạc, Dịch và Xuân Thu, trong số đó sách Nhạc bị thất truyền, số còn lại được gọi là Ngũ Kinh.

Năm 550 TCN:

Đế quốc Persia (Ba Tư) đo Cyrus (Sirút) Đại đế sáng lập bao gồm các vùng rộng lớn của Trung Cận Đông. Nghệ thuật và kiến trúc Persia phát triển tới đỉnh cao. Tôn giáo Zoroastria (thờ Thần Lửa) lan rộng.

Năm 538 TCN:

Persia (Ba Tư) chinh phục Babylone (Babilon) và đưa người Do Thái trở về Jerusalem (Giêru Salem).

Năm 509 – 506 TCN

Clisthène (Clixten) tiếp tục công cuộc dân chủ hóa nền chính trị và Nhà nước Athènes bằng cuộc cải cách triệt để về hiến pháp xã hội. Nhà nước Athènes được hoàn thiện, Hy Lạp trở thành nước có nền chính trị dân chủ tiến bộ nhất thời đó.

Khoảng năm 500 TCN:

Người Trung Quốc phát minh ra bàn tính.

Khoảng năm 500 TCN:

Vương quốc Axưm (Axum) ở Ethyopia ra đời. Các lâu đài, lăng tẩm, đền thờ bằng đá được xây dựng. Vương quốc này từng có quan hệ buôn bán với Ấn Độ, Cận Đông, và bị sụp đổ vào năm 700.

Năm 500 – 449 TCN:  

Chiến tranh Hy Lạp – Ba Tư nổ ra do sự cạnh tranh về thương mại giữa Athènes và Ba Tư. Cuộc chiến tranh kết thúc với sự thắng lợi của Hy Lạp. Athènes trở nên thành phố đứng đầu Hy Lạp và bá chủ phía Đông Địa Trung Hải.

Trong khoảng năm 500 – 440 TCN:

Leucippus (Lơxíp), nhà triết học Hy Lạp, đề xướng thuyết nhân quả, cho rằng: mọi sự kiện trong tự nhiên đều có nguyên nhân trong tự nhiên.

Năm 481 – 221 TCN:

Trung Quốc trong thời kỳ Chiến Quốc – giai đoạn cuối của Đông Chu. Trong thời kỳ này, chiến tranh đã làm hình thành nên bảy nước lớn là Tề, Sở, Yên Tần, Hàn, Triệu, Ngụy và một số nước nhỏ. Bảy nước lớn không ngừng đánh nhau với quy mô lớn.

Về sản xuất, nông nghiệp các nước phát triển. Nhiều công trình thủy lợi lớn được xây dựng như Đập Đô Giang của nước Tần, mương nước Trịnh… Thủ công nghiệp cũng phát triển và nổi tiếng với các nghề chạm, dát vàng, dệt vải và đồ sơn. Hoạt động học thuật, nhất là trên lĩnh vực tư tưởng diễn ra rất sôi nổi, làm hình thành các trường phái tư tưởng nổi tiếng như: Mặc Gia, Nho Gia, Đạo Gia và Pháp Gia với các nhà tư tưởng lớn thời đó như: Mặc Tử, Mạnh Tử, Tuân Tử, Trang Tử và Hàn Phi Tử.

Trong khoảng năm 460 – 400 TCN:

Democritus (Đêmôcrít), nhà triết học Hy Lạp, đề xướng quan niệm vật chất có cấu trúc nguyên tử. Theo quan niệm này thì mọi chất đều được cấu tạo bởi những nguyên tử nhỏ xíu mà mắt người không nhìn thấy được.

Năm 457- 429 TCN:

Thời đại Perìclès (Périclét), thời đại hoàng kim nhất của Athènes, Triết học, điêu khắc và hội họa phát triển đến đỉnh cao. Đền Parthenon (Páctênông) ngôi đền vĩ đạị nhất của Hy Lạp cổ đại, được xây dựng (từ năm 447 đến năm 432 TCN) ở Acropole (Acropón).  

Khoảng năm 440 – 370 TCN:

Hippocrate (Hipôcrát), thầy thuốc Hy Lạp, Thủy tổ của y học, đưa y học ra khỏi lĩnh vực cực đoan đến lĩnh vực quan sát, cho rằng tự nhiên là người chữa bệnh tốt nhất.

Khoảng nảm 435 TCN:

Phidias (Phiđiát), kiến trúc sư và nhà điêu khắc lỗi lạc nhất của Hy Lạp cổ đại, hoàn thành bức tượng Thần Zeus (Zớt), một trong bảy kỳ quan của Thế giới cổ đại, cho Đền Olympia.

Năm 431 – 404 TCN:

Nội chiến ở Hy Lạp, lịch sử thường gọi là cuộc chiến tranh Péloponèse (Pêlôpônedơ), xảy ra và lan rộng bắt nguồn từ sự thù dịch giữa Sparte (Xpác) và Athènes (Athens). Athènes thất bại và bị phá hủy.

Khoảng năm 387 TCN:

Platon (Platôn) triết gia cổ đại Hy Lạp sáng lập học viện của ông ở Athènes, được coi là trường đại học đầu tiên của Châu Âu.

Năm 359 – 336 TCN:

Vua Philippe (Philip) của nước Macédoine (Maxêđoan) chinh phục Thrace (Tơraxơ), Thèbes (Tebơ) và Athènes, rồi thống nhất Hy Lạp thành một liên minh dưới quyền thống trị của mình.

Năm 336 – 323 TCN:

Alexandre (Alếchxanđrơ) con trai của Philippe cầm quyền ở Macédoine. Ông là một thiên tài quân sự thời Cổ đại, và là người Châu Âu đầu tiên tiến hành nhiều cuộc chiến tranh nhằm chinh phục phương Đông. Dưới thời ông, đế quốc Macédoine được mở rộng, sáp nhập được cả Ai Cập và Cận Đông.

Năm 327- 326 TCN, Alexandre xâm lăng Ấn Độ, nhưng sau đó phải rút lui vì quân đội của ông nổi dậy chống lại.

Năm 325 – 298 TCN:

Triều đại của Chandragupta (Sanđragúpta), người sáng lập ra vương triều Maurya (Môria) nổi tiếng và thống nhất Ấn Độ.

Năm 323 TCN:

Thời kỳ Hy Lạp hóa (Hellenistic) bắt đầu, ảnh hưởng của Hy Lạp lan rộng ở Địa Trung Hải, Ai Cập và Cận Đông. Trên cơ sở đó tại các Quốc gia Hy Lạp hóa đã diễn ra sự kết hợp hài hòa và sự thâm nhập lẫn nhau giữa nền văn hóa cổ điển Hy Lạp với các di sản văn hóa quý báu của phương Đông. Thời kỳ Hy Lạp hóa kết thúc vào năm 30 TCN.

Năm 323 – 30 TCN:

Triều đại Ptolémé (Ptôlêmê) ở Ai Cập từ đời Vua Ptolémé I (305-283 TCN) đến Ptolémé XV (47-30 TCN).

Năm 300 TCN

Herophilus (Hêrôphin), thầy thuốc và nhà giải phẫu học Hy Lạp (nhà giải phẫu thực sự đầu liên), bắt đầu nghiên cứu có hệ thống về giải phẫu, phân biệt dây thần kinh giác quan và dây thần kinh vận động.

Khoảng năm 300 TCN:

Nhà toán học Hy Lạp là Euclide (Ơclit) soạn thảo cuốn các nguyên tố, lần đầu tiên chinh thức phát biểu về những nguyên lý hình học.

Khoảng năm 300 TCN:

Người Trung Quốc phát hiện ra đá nam châm và biết sử dụng nó để chỉ phương hướng. Đến thế kỷ XI người ta bắt đầu dùng sắt mài lên đá nam châm để thu từ tính, rồi dùng miếng sắt đó để chế tạo la bàn.

Năm 300 TCN:

Thành phố Alexandria của Ai Cập trở thành trung tâm trí tuệ Thế giới Hy Lạp hóa.

Năm 292 – 280 TCN:

Tượng Rhodes (Rôđơ), một trong bảy kỳ quan của Thế giới cổ đại được xây dựng. Đây là tượng Thần Mặt trời Helios (Hêliốt) lâm bằng đồng và cao hơn 100 Feet (1 feet = 0,3048 mét).

Khoảng năm 287 TCN:

Năm sinh Archimedes (Acsimét 287-212 TCN) nhà toán học và vật lý học Hy Lạp tìm ra định luật về các vật thể nổi, lập ra môn thủy tỉnh học.

Năm 280 TCN:

Xây dựng ngọn Hải đăng Pharos (Pharốt) ở Alexandria (Ai Cập), một trong bảy kỳ quan của Thế giới Cổ đại.

Năm 273 – 236 TCN:  

Dưới triều Vua Ashoka (Asôca) Ấn Độ cổ đại phát triển đến giai đoạn phồn thịnh nhất. Đạo Phật được tôn làm Quốc đạo và được truyền bá rộng rãi. Ông cho xây đựng nhiều chùa chiền, khắc nhiều chiếu chỉ trên các cột đá, vách đá và triệu tập Đại hội Phật giáo lẩn thứ 3 ở Palaliputra (Palaliputơra).

Năm 264 – 146 TCN:

Chiến tranh Punic giữa Roma và Carthage (Cáctagiơ) nhằm giành giật đất đai, thị trường và nô tệ. Carthage bị thất bại, Roma thống nhất gần như toàn bộ khu vực Địa Trung Hải gồm: Bán đảo ltalia, Tây Ban Nha, Macédoine, Hy Lạp, Tiểu Á, Syria, Ai Cập và bờ biển Bắc Phi thành một đế quốc rộng lớn.

Năm 250 TCN:

Đế quốc Parthian (Pácti) thay thế đế quốc Ba Tư ở Trung Cận Đông, và tồn tại đến năm 226 SCN.  

Khoảng năm 230 TCN:

Eratosthenes (Eratôxten), nhà thiên văn học Hy Lạp lần đầu tiên tính được chu vi Quả đất (không dùng đến các khí cụ thiên văn).

Almanach,

0 0 bình chọn
Đánh giá bài viết
Đăng ký
Thông báo
guest

0 Góp ý
cũ nhất
mới nhất vote
Inline Feedbacks
Xem tất cả thảo luận