Tấn Minh Đế tên thật là Tư Mã Thiệu, là con trưởng của Tư Mã Duệ, tuổi Mùi. Là người thông minh, nhìn xa trông rộng, rất có tài thao lược. Kế vị sau khi Tấn Nguyên Đế qua đời, tại vị 3 năm, thọ 27 tuổi.
Năm sinh, năm mất: 299 – 325.
Nơi an táng: Lăng Vũ Bình. Thuy hiệu là Minh Đế, miếu hiệu là Tiêu Tông.
Công – tội: Công lao chính của ông là bình định được phản thần Vương Đôn, duy trì được sự thống trị của họ Tư Mã.
Sau khi Tư Mã Duệ qua đời, Tư Mã Thiệu kế vị khi 24 tuổi.
Từ nhỏ, Tư Mã Thiệu đã giao du với quần thần, dường như là để chuẩn bị cho việc chấp chính sau này. Ông là người văn võ song toàn, trọng dụng người hiền tài, có quan hệ thân thiết với các đại thần Vương Đạo, Dữu Lượng, Ôn Kiều. Cho nên, khi vừa kế vị, ông liền thương lượng sách lược trị quốc an dân với bọn họ.
Đáng tiếc là vận mệnh không cho ông thời gian để thể hiện tài hoa. Bởi vì, khi Tư Mã Thiệu vừa đăng cơ, Vương Đôn – người nắm giữ trọng binh của triều đình – muốn phế truất ông. Nhờ có Vương Đạo và các đại thần kiên quyết ủng hộ Tư Mã Thiệu nên âm mưu đó mới không được thực hiện.
Một đêm, Vương Đôn cùng uống rượu với cháu trai Vương Doãn. Uống được vài chén, Vương Doãn cảm thấy khó chịu nên về phòng ngủ trước. Một lát sau, tâm phúc của Vương Đôn là Tiền Phượng đến. Bọn họ cùng bàn bạc kế mưu phản. Vương Doãn đã nghe lén được âm mưu đó, thông báo với cha là Vương Thư. Sau khi Vương Thư bàn bạc với Vương Đạo liền báo cáo lên Hoàng thượng.
Tư Mã Thiệu hay tin, liều mình hoả trang thành binh sĩ, trà trộn vào phủ Vương Đôn để thăm dò. Có tên lính thấy dung mạo của ông không giống người phàm tục, báo cáo với Vương Độn. Qua miêu tả của kẻ đó, Vương Đôn khẳng định người này chính là Tư Mã Thiệu nên liền sai người bắt ông lại.
Tư Mã Thiệu biết mình đã bị Vương Độn phát giác, liền phi ngựa bỏ trốn. Khi đến một giao lộ, thấy quân lính đã đuổi đến gần, ông liền đưa cây roi ngựa bằng vàng khảmngọc của mình cho một bà lão bán đồ ăn bên đường và nói rằng: “Một lát nữa có mấy binh sĩ đuổi đến, bà hãy cho họ xem cây roi này”.
Khi quân linh đuổi tới, dừng lại chỗ bà lão để hỏi thăm. Khi nhìn thấy cây roi trong tay bà thi liền cầm lấy truyền tay nhau ngắm nghía, trầm trồ khen ngợi, hao tốn không ít thời gian. Đến khi bọn chủng tiếp tục lên đường thì Tư Mã Thiệu đã chạy xa rồi.
Để làm tan rả hàng ngũ địch, cổ vũ sĩ khí, Vương Đạo tuyên bố rằng Vương Đôn đã chết. Tư Mã Thiệu hạ lệnh thảo phạt phản tặc Tiền Phượng. Vương Đôn nổi trận lôi đình, xuất quân tiến công Kiến Khang. Vài ngày sau, quân Vương Đôn đánh đến bờ nam của Kiến Khang. Tư Mã Thiệu thân chinh dẫn binh nghênh chiến. Ông phái một đội quân cảm tử nhân đêm tối vượt sông, bất ngờ tập kích quân Vương Đôn, đánh cho chúng đại bại phải tháo chạy.
Vương Đôn buồn bã chán nán, không lâu sau thì qua đời. Nội bộ quân phản loạn hoản loạn, bị quân của Tư Mã Thiệu đánh cho tan tác. Sau khi bình định quân phản loạn, Tu Mã Thiệu tha tội cho tất cả binh sĩ và tướng lĩnh, chỉ trừng phạt Vương Hàm, Tiền Phượng. Ông sai người đào mộ của Vưong Đôn, chặt đầu thi thể của hắn để thị chúng.
Đúng lúc Tư Mã Thiệu đang bàn bạc kế sách chinh phạt phương bắc với quần thần thì ông lại đột ngột qua đời.
Tháng 8 năm 325, Tư Mã Thiệu bị ốm nặng bệnh tình rất nguy kịch. Ông vội vàng sai gọi tể tướng, Tư Mã dạng, Vương Đạo, thượng thư Biện Hồ đến triệu kiến, ông muốn 3 người đó phụ giúp cho Tư Mã Diễn. Ngày hôm sau (ngày Mậu Tí), ông mất tại Đông Đường trong cung Kiến Khang.
Chính Sử Trung Quốc qua các triều đại - nhiều tác giả,