Hán Quang Văn Đế tên thật là Lưu Uyên, tự là Nguyên Hải, là con trai của Tà bộ sư Lưu Bảo của Hung Nô vào cuối thời Đông Hán. Sau này, tự lập làm hoàng đế sáng lập ra triều Hán (Tiền Triệu) trong lịch sử Trung Quốc. Là người quả cảm, giỏi dùng mưu. Tại vị 6 năm, ốm chết.
Năm sinh, năm mất: ? – 310
Nơi an táng: lăng Vĩnh Quang (không rõ ngày nay ở đâu). Thuy hiệu là Quang Văn Hoàng Đế, miếu hiệu là Cao Tổ.
Năm Kiến Vũ thứ 22 thời Quang Võ Đế triều Đông Hán (năm 46), đại thảo nguyên Mông Cổ, nơi người Hung Nô sinh sống, xảy ra đợt hạn hán lớn nhất trong lịch sử. Người Hung Nô vốn sống bằng nghề chăn nuôi gia súc nên hạn hán với họ thực sự là một tai hoạ. Cuối cùng, Hung Nô chia tách thành Bắc Hung Nô và Nam Hung Nô.
Bắc Hung Nô bị bức phải di cư về phía tây. Hơn 2 thế kỷ sau, người Bắc Hung Nô được sinh ra từ các cuộc thông hôn với các dân tộc trên đường đi xây dựng lại đất nước ở đồng bằng Hungary ngày nay. Năm 453, vua Hung Nô là A Đề La chết bất đắc kỳ tử. Những người Hung Nô di cư về phương bắc cuối cùng cũng phân tán và gia nhập vào các dân tộc châu Âu.
Nam Hung Nô thì dựa vào triều Đông Hán, tản cư đến những quận huyện xa xôi ở vùng Sơn Tây. Những người này cho rằng tổ tiên họ từng nhiều lần cầu thân với triều Hán, là thân thích của hoàng thất nhà Hán nên sau này đã đổi họ thành họ Lưu. Năm 216, Tào Tháo thấy người Hung Nô di cư vào trong nội địa gồm nhiều bộ lạc, dân cư đông đúc nên đã phân chia Nam Hung Nô thành năm bộ lạc tả, hữu, nam, bắc, trung để làm suy yếu thế lực của họ. Mỗi bộ tộc do một người đứng đầu, phái người Hán làm Tư mã để giám sát. Khi đó, Lưu Báo – cha của Lưu Uyên – là Tả bộ soái.
Lưu Uyên từ nhỏ đã sống ở đất Hán, chịu ảnh hưởng sâu sắc văn hoá của người Hán, chăm chỉ học hành, theo học danh Nho người Thượng Đảng là Thôi Du, học những kinh tích cổ điển của người Hán. Do xuất thân là con nhà võ, nên Lưu Uyên cũng rất thích nghiên cứu những sách về quân sự và mưu lược nhà binh. Có thể nói rằng ông là người Hung Nô hiểu biết về văn hoá Hán nhất.
Năm Hàm Hy triều Ngụy (264 – 265), Lưu Uyên làm con tin ở Lạc Dương. Tư Mã Chiêu – người nắm quyền thể lúc đó – rất coi trọng ông, thường mời đến phủ chơi. Không lâu sau, phụ thân Lưu Uyên là Lưu Báo ốm chết. Theo quy định của nhà Tấn, Lưu Uyên có thể trở về kế thừa chức Tả bộ bộ soái. Cuối năm Thải Khang thời Tấn Vũ Đế, Lưu Uyên được phong làm Bắc bộ đồ uý.
Sau khi Lưu Uyên trở về bộ tộc chỉnh đốn pháp luật, nghiêm trị gian thần, thực hành tiết kiệm, đối xử chân thành với bề tôi, tất cả hào kiệt của năm bộ tộc đều đi theo ông. Đến cả những danh Nho, nhân tài của vùng U Châu, Ích Châu cũng không quản ngại đường xa ngàn dặm tìm đến.
Sau khi Tấn Vũ Đế qua đời, ngoại thích Dương Tuấn phụ chính, thăng chức cho Lưu Uyên làm Kiến Uy tướng quân, Đại đô uý của năm bộ tộc và còn phong làm Hàn Quang Hương Hầu. Thời Tấn Huệ Đế, tám vị vương hầu và các quý tộc tranh đấu với nhau, âm mưu giành quyền thống trị. Lưu Uyên nhân cơ hội đó quy tụ binh mã của năm bộ tộc, đứng ngoài cuộc quan sát. “loạn bát vương” bắt đầu, khi Thành Đô Vương Tư Mã Dĩnh nắm quyền đã phong cho Lưu Uyên làm Đại đô đốc, triệu ông đến Nghiệp Thành, phong làm Ninh Sóc tướng quân, cai quản quân sự của năm bộ tộc Hung Nô.
Lúc này, “loạn bát vương” ngày càng trở nên kịch liệt, năm bộ tộc Hung Nô cũng rục rịch muốn nổi dậy. Lưu Tuyên, chú họ của Lưu Báo, bí mật triệu tập các quý tộc của năm bộ tộc, bí mật tiến cử Lưu Uyên làm Đại thiền vu và ngầm phái một người Hung Nô là Hô Diên Du đến Nghiệp Thành, thông báo việc này với Lưu Uyên.
Lưu Uyên biết mình được năm bộ tộc tôn làm Đại thiền vu thì vô cùng sung sướng. Ông nói dối Thành Đô Vương Tư Mã Dĩnh rằng có người trong năm tộc qua đời, xin được trở về bộ tộc tham dự tang lễ. Nhưng Tư Mã Dĩnh xét thấy tình hình chiến loạn đang kịch liệt, không phê chuẩn. Do đó, kể hoạch của Lưu Uyên không thành mà cũng không dám tự ý bỏ trốn. Ông đành phải để Hô Diên Du về trước, để bọn Lưu Tuyên tập hợp binh mã của năm bộ tộc và các tộc Hồ, còn mình ở lại chờ thời cơ bỏ về.
Năm 304, Vương Tuấn và Tư Mã Đằng khởi binh làm phản Tư Mã Dĩnh. Lưu Uyên nhân cơ hội này nói với Tư Mã Dĩnh rằng thế lực quân phản loạn quá mạnh, xin cho hắn về bộ tộc điều động quân Hung Nô đến trợ giúp, Tư Mã Dĩnh đồng ý.
Tháng 10 năm 304, Lưu Uyên rời Nghiệp Thành, hoà tốc chạy về thành Tả Quốc (Ly Thạch tỉnh Sơn Tây ngày nay). Lưu Tuyên và quý tộc năm bộ tộc lập tức tôn Lưu Uyên làm Đại thiền vu, đặt kinh đô ở Ly Thạch. Chỉ trong vòng 20 ngày, bọn họ đã tập hợp được hơn 5 vạn binh mã.
Lưu Uyên vừa rời khỏi Nghiệp Thành, quân Tiên Ty do Vương Tuấn thống lĩnh đã đánh bại quân Tư Mã Dĩnh, tiến vào Nghiệp Thành. Tư Mã Dĩnh mang theo Tư Mã Ai bỏ trốn về Lạc Dương. Lưu Uyên hay tin, xót xa nói rằng: “Tư Mã Dĩnh đúng là một tên có tài, nếu lúc đầu nghe lời ta thì sao đến nông nổi như ngày nay. Nhưng, ta và hắn đã có ước định, không thể thấy chết không cứu”. Thế là, Lưu Tuyên phái 2 hơn vạn kỵ binh tiến đánh Tiên Ty, Ô Hoàn để giải cứu Nghiệp Thành.
Bọn Lưu Tuyên lập tức khuyên can: “Triều Tấn vô đạo, luôn sai bảo năm bộ tộc chúng ta như nô lệ. Nay anh em, cha con nhà Tấn nồi da nấu thịt chính là cơ hội trời ban cho Hung Nô ta khôi phục đại nghiệp. Hơn nữa, Tiên Ty và Ô Hoàn đều là những dân tộc thiểu số như chúng ta, không những không thể sát hại mà còn nên liên minh với họ, để họ trở thành viên quan cho chúng ta”.
Lưu Uyên rút cục vẫn là người thông minh, lập tức thuận theo số đông, xúc động nói rằng: “Khanh nói đúng. Nay chúng ta có mười vạn tinh binh, mỗi người có thể địch lại 10 người, tiêu diệt triệu Tần dễ như trở bàn tay. Thành công thì dựng được đại nghiệp như Hán Cao Tổ, thất bại thì cũng không mất bá nghiệp của Tào Ngụy”. Lưu Uyên nói đến đó thì trầm ngâm một lúc rồi nói với quý tộc của năm tộc: “Nhưng chúng ta cũng không thể quên rằng, muốn chiếm được thiên hạ thì phải được lòng người. Vì đại nghiệp chung của chúng ta, chúng ta nên mượn danh nghĩa của triều Hán. Ai cũng biết rằng tổ tiên của chúng ta là Thiền vu Mạo Đổn từng lẫy con gái Hán làm Yêm thị (hoàng hậu). Chúng ta đều là họ ngoại của người Hán. Chúng ta kết giao huynh đệ với người Hán, anh chết thì em kế tục, hợp tình hợp lý”. Do đó, Lưu Uyên xưng làm Hán Vương, năm 304 đăng cơ ở thành Tả Quốc, đặt hiệu là Nguyên Yên, đặt ra các chức quan theo mô hình triều Hán. Lưu Uyên trở thành người sáng lập ra nhà nước đầu tiên của Thập lục quốc.
Lúc này, Cấp Tang khởi binh ở triệu Ngụy, Vương Vương Di khởi binh ở Sơn Đông, Thạch Lặc người tộc Hạt khởi binh ở Hà Bắc sau khi bị nhà rất đánh bại, ngưỡng mộ danh tiếng của Lưu Lyên, lần lượt đến nương nhờ Lưu Uyên. Lưu Uyên phong quan tước cho bọn họ. Thế lực của ông ngày càng lớn mạnh.
Năm 308, Lưu Uyên dời đô đến Bồ Tử, tự xưng làm hoàng đế. Không lâu sau, lại dời đô đến Bình Dương, âm mưu tấn công Lạc Dương. Sau khi xưng đế, Lưu Uyên đại xá thiên hạ, phong chưc tước cho các con trai và tông thất, lập vợ là Thiền Thị làm hoàng hậu, lập con trai Lưu Hoà làm hoàng thái tử.
Tháng 7 năm 310, Lưu Uyên ốm nặng, không lâu sau qua đời ở điện Quảng Cực trong cung Bình Dương.
Chính Sử Trung Quốc qua các triều đại - nhiều tác giả,