Lịch sử Trung Quốc ghi chép lại một năm sau khi Tô Vũ đi sứ Hung Nô, Hán Vũ Đế phái Nhị Sư tướng quân Lý Quảng Lợi đem ba vạn quân đánh Hung Nô, bị đại bại, hầu như toàn quân bị tiêu diệt, Lý Quảng Lợi phải chạy về. Cháu của Lý Quảng là Lý Lăng lúc đó là Kỵ đô uý, đem năm ngàn quân bộ, tác chiến với Hung Nô. Thiền vu Hung Nô thân chỉ huy ba vạn kỵ binh vây chặt toán quân ít ỏi của Lý Lãng. Mặc dù Lý Lăng có tài bắn tên rất giỏi, binh sĩ cũng hết sức dũng cảm, nhưng năm ngàn bộ binh sau khi đã giết chết năm, sáu ngàn kỵ binh Hung Nô vẫn bị quân địch đông đảo đánh bại. Do không có quân cứu viện, nên cuối cùng chỉ còn hơn bốn trăm quân Hán, chọc được vòng vây chạy thoát. Riêng Lý Lăng bị quân Hung Nô bắt được, phải đầu hàng.
Tin Lý Lăng đầu hàng Hung Nô làm chấn động triều đình. Hán Vũ Đế bắt mẹ và vợ con Lý Lăng giam vào ngục, rồi triệu tập đại thần, nghị tội Lý Lăng.
Các đại thần đều buộc tội Lý Lăng tham sống sợ chết nên đã đầu hàng Hung Nô. Hán Vũ Đế hỏi ý kiến Thái sử lệnh Tư Mã Thiên về việc này.
Tư Mã Thiên nói: “Lý Lăng chỉ đem theo không tới năm ngàn bộ binh, đi sâu vào đất địch, đánh lại với mấy ngàn kỵ binh. Tuy bị thua trận, nhưng ông ta đã giết được nhiều địch như thế, cũng có thể tạ tội với thiên hạ. Lý Lăng không chịu hy sinh tính mệnh, hẳn là có chủ ý để sau này sẽ lập công chuộc tội báo đáp lại hoàng thượng.”
Hán Vũ Đế nghe nói, cho rằng Tư Mã Thiên có ý chê bai Lý Quảng Lợi (Lý Quảng Lợi là anh ruột của Lý Quí Phi của Hán Vũ Đế) liền đùng đùng nổi giận, nói: “Ngươi ra sức biện bạch cho kẻ đầu hàng, chẳng phải là cố ý phản bội lại triều đình sao?” Liền quát võ sĩ lôi Tư Mã Thiên vào nhà giam, giao cho đình úy luận tội.
Sau khi luận tội, Tư Mã Thiên bị xử vào tội đáng bị phủ hình (tội bị thiến). Tư Mã Thiên không có tiền chuộc tội, phải chịu hình phạt và giam vào ngục.
Tư Mã Thiên cảm thấy bị phủ hình là một điều hết sức nhục nhã, đã định tự sát. Nhưng lại nghĩ bản thân còn một việc hết sức quan trọng chưa hoàn thành xong, không thể chết được. Ông đang dồn hết tinh lực để viết một bộ sử, đó là một trước tác lịch sử vĩ đại nhất của Trung Quốc cổ đại – Bộ sử Ký. Vốn là, ông cha mấy đời của Tư Mã Thiên đều làm quan chép sử. Cha ông là Tư Mã Đàm cũng làm thái sử lệnh. Khi lên mười tuổi, Tư Mã Thiên đã theo cha lên Trường An và đọc rất nhiều sử sách.
Để sưu tập sử liệu, mở mang tầm mắt, từ năm hai mươi tuổi, Tư Mã Thiên đã đi khắp nơi trong nước. Ông đã tới Cối Kê của Triết Giang, thăm nơi vua Vũ đã triệu tập thủ lĩnh các bộ lạc, đến Trường Sa, viếng nơi Khuất Nguyên trầm mình trên sông Mịch La; đến Khúc Phụ, khảo sát nơi Khổng Tử từng dạy học; đến quê hương của Hán Cao Tổ, nghe các phụ lão kể chuyện khởi binh của Lưu Bang. Việc đi thăm thú và khảo sát đó, Khiển Tư Mã Thiên thu nhận được nhiều tri thức và học tập được nhiều ngôn ngữ dân gian phong phú, đặt cơ sở vững chắc cho việc viết văn của ông sau này.
Sau này, Tư Mã Thiên còn làm quan tùy tòng của Hán Vũ Đế, được theo nhà vua đi các nơi và được cử đi thị sát ở các vùng Ba, Thục, Côn Minh.
Sau khi Tư Mã Đảm chết, Tư Mã Thiên kế thừa chức vụ của cha, làm thái sử lệnh, lại càng sưu tập và đọc được nhiều sử liệu.
Chính lúc ông đang chuẩn bị bắt tay vào việc viết bộ sử đó thì xảy ra sự kiện Lý Lãng, và do biện hộ cho Lý Lăng mà ông bị xử phủ hình, giam vào ngục. Ông đau đớn nghĩ rằng do sai lầm trong nói năng mà thân thể bị tàn phế, không còn đáng sống nữa.
Nhưng lại nghĩ, trước kia Chu Văn Vương bị giam ở ngục Dìu Lý, đã viết nên bộ “Chu Dịch”; Khổng Tử chu du các nước, bị khốn ở Trần, Thái, sau đã viết nên bộ “Xuân Thu”; Khuất Nguyên bị đày, đã viết nên “Ly Tao”; Tả Khâu Minh bị mù, đã viết “Quốc Ngữ”; Tôn Tần bị tháo xương bánh chè, đã viết “Binh pháp”. Còn ba trăm bài trong Kinh Thi, tuyệt đa số là do người xưa đã viết nên trong tâm tình bi phẫn. Những trước tác nổi tiếng đó đều do các tác giả có điều uất ức trong lòng hoặc khi lý tưởng không thực hiện được mà viết ra. Tại sao không nhân lúc này mà hoàn thành tác phẩm đã ôm ấp và chuẩn bị từ lâu?
Vì vậy, ông bắt đầu mải miết viết sử ký, ghi chép từ thời Hoàng Đế trong truyền thuyết đến năm thứ hai niên hiệu Thái Thủy đời Hán Vũ Đế (95 trước Công nguyên), soạn thành một cuốn sách đồ sộ gồm 130 thiên, tất cả 52 vạn chữ.
Trong tác phẩm Sử Ký, Tư Mã Thiên đã thuật lại tỉ mỉ về sự tích các nhân vật nổi tiếng thời cổ. Ông đã đánh giá rất cao các lãnh tụ khởi nghĩa nông dân Trần Thắng, Ngô Quảng; luôn giữ thái độ đồng tình với những nhân vật bị áp bức thuộc tầng lớp dưới. Ông còn thay đổi chữ viết rất khó của thời cổ thành chữ viết tương đối đơn giản đương thời. Sự miêu tả nhân vật với tình tiết sinh động, hình tượng trong sáng, lời văn sống động trôi chảy, đã làm cho “Sử Ký” không những là một trước tác lịch sử, mà còn là một trước tác văn học kiệt xuất.
Sau khi ra khỏi nhà ngục, Tư Mã Thiên làm Trung thư lệnh, sau đó đã mất trong đau buồn. Những tác phẩm “Sử Ký” của ông còn sống mãi và có địa vị cao trong sử học và văn học Trung Quốc và thế giới.
Không hiểu